Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích 4 câu thơ cuối tác phẩm chinh phụ ngâm

phâ tích 4 câu thơ cuối tác phẩm chinh phụ ngaam
 
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
24
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Phân tích 4 câu thơ cuối trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Cát sẽ giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của nhân vật và những thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm.

Câu thơ cuối cùng thể hiện nỗi đau và sự u uất của người phụ nữ trong cảnh chiến tranh, khi mà tình cảm bị chia cắt bởi những hoàn cảnh khắc nghiệt. Nhân vật chính không chỉ chịu đựng nỗi cô đơn, mà còn đối diện với sự bất lực trước thực tại, khi mà tình yêu và hạnh phúc dường như trở nên xa vời.

### Phân tích nội dung 4 câu thơ cuối:

1. **Nỗi nhớ và sự khắc khoải**:
Các câu thơ thể hiện rõ nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu, nỗi khắc khoải chờ đợi. Điều này không chỉ phản ánh tâm trạng của một người phụ nữ mà còn là sự tượng trưng cho nỗi đau mất mát chung của những người sống trong thời kỳ chiến tranh.

2. **Sự phân ly và bi kịch**:
Tác phẩm cho thấy sự phân ly giữa tình yêu và trách nhiệm. Người phụ nữ phải chịu đựng nỗi buồn mà không thể nguôi ngoai, điều này gây ra một bi kịch tâm lý lớn. Cảnh chiến tranh đã khiến cho những tình cảm cao đẹp trở nên trắc trở, khó khăn.

3. **Tinh thần kiên cường**:
Mặc dù đau khổ, nhưng vẫn toát lên một tinh thần kiên cường, không gục ngã trước hoàn cảnh. Người phụ nữ vẫn giữ niềm tin và hy vọng vào một ngày đoàn tụ.

4. **Giá trị nghệ thuật**:
Cuối cùng, bốn câu thơ kết thúc tác phẩm không chỉ tạo ra hiệu ứng cảm xúc mạnh mẽ mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của Đặng Trần Cát. Ông sử dụng hình ảnh, ngôn từ tinh tế, điêu luyện để khắc họa tâm trạng.

### Kết luận
Tóm lại, 4 câu thơ cuối trong "Chinh phụ ngâm" là một bức tranh thể hiện nỗi đau khổ, sự chờ đợi, và tinh thần kiên cường của người phụ nữ trong bối cảnh chiến tranh. Qua đó, tác phẩm khắc họa sâu sắc những nỗi niềm của con người trong thời kỳ lịch sử đầy biến động.
1
0
Little Wolf
06/01 13:17:26
+5đ tặng

Cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến ở nước ta cuối thế khỉ XVIII đi qua để lại những đau thương mất mát không gì bù đắp được. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn trích dưới đây là một trong những đoạn tiêu biểu của bản ngâm khúc:

Khi phân tích 16 câu đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng. Đó là ước muốn, là khát khao được biết tin tức về chồng mình:

“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”

Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố (non Yên) để diễn tả nỗi nhớ của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non Yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía Bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ. Nàng hỏi gió, nhờ gió nhưng ”có tiện” hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương. Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng khắc khoải. Làm sao tới được non Yên, nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh”? Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng", "xin” đã giúp người đọc thấy được không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn, hiu quạnh. Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng, đau xót:

“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Việc sử dụng từ láy "thăm thẳm" đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian, “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”. Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn - điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận.

Sau khi hỏi “gió đông” để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng, cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau, sự tủi thân:

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng, với biển trời rộng lớn, xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng” của người vợ trẻ. Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ láy: "đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể, tinh tế, sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương. Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh:

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên. Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Nhìn cành cây ướt đẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo. Nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, cô đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa, sự mòn héo của cảnh vật, tám câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết, nhớ tới thầm đau của người chinh phụ. Nỗi đau được chuyển từ lòng người sang cảnh vật. Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được một cách sâu sắc niềm thương cảm, thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận.

Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.

Đoạn trích cũng như toàn tác phẩm "Chinh phụ ngâm" là tiếng kêu thương tâm của người phụ nữ nhớ chồng nơi chinh chiến. Trạng thái tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận để biết bao chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Tác phẩm đã khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Đặng Hải Đăng
06/01 18:34:58
+4đ tặng
Bốn câu thơ cuối của tác phẩm Chinh phụ ngâm (trích đoạn cuối) thể hiện sự chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật chính, người chinh phụ. Đây là những câu thơ đầy cảm xúc, thể hiện sự khổ đau, nỗi buồn, nhưng cũng là sự cam chịu và hy vọng vào một ngày đoàn tụ.

Câu thơ thứ nhất, "Mây mù che kín đất trời", diễn tả không gian ảm đạm, tối tăm, thể hiện nỗi cô đơn, tuyệt vọng của người chinh phụ khi sống trong cảnh xa cách, thiếu vắng người chồng.

Câu thứ hai, "Cái hồn bơ vơ, chẳng có nơi đâu", làm nổi bật tâm trạng lạc lõng, tủi thân, không có chỗ dựa, không nơi để gửi gắm tâm hồn. Đây là hình ảnh của người phụ nữ mất phương hướng trong cuộc sống.

Câu thứ ba, "Tưởng chừng trời đất không còn", là sự tuyệt vọng đến tột cùng, tưởng như mọi thứ đã chấm dứt, không còn hy vọng.

Cuối cùng, "Người chinh phụ đã thở dài", đây là sự kết thúc của đoạn thơ, thể hiện sự cam chịu, chấp nhận nỗi đau và số phận, nhưng cũng mở ra một khát khao hy vọng, mong muốn đoàn tụ dù trong lòng vẫn đầy đau khổ.

Những câu thơ này không chỉ thể hiện nỗi đau của người phụ nữ mất chồng, mà còn phản ánh sự kiên cường, tâm trạng phức tạp giữa sự chịu đựng và khát vọng tái hợp.







 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×