Văn chương là nơi người nghệ sĩ gửi gắm những tâm trạng, nỗi niềm của mình. Đó cũng là nơi mà các nhà văn, nhà thơ thể hiện cái chí của bậc nam tử. Cao Bá Quát cũng là một trong số những nhà thơ ấy. Với bài thơ "Sa hành đoản ca" (Bài ca ngắn đi trên bãi cát), ông đã bộc lộ nỗi niềm trăn trở, sự chán ghét đối với chế độ chính trị đương thời.
Bốn dòng thơ đầu tiên đã thể hiện hình ảnh người lữ khách với tâm trạng buồn bã, phiền muộn:
"Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ
Khách tử lệ giao lạc".
(Bãi cát lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.)
Cao Bá Quát đã nhiều lần vào thi Hội ở kinh đô Huế nên ông đã quen thuộc với những bãi cát chạy dọc nối tiếp nhau ở các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị. Ông đưa những hình ảnh đó vào bài thơ để ẩn dụ cho con đường công danh gian nan, chông gai, vất vả. Các điệp từ "trường sa", "nhất" được lặp lại gợi ra một không gian rợn ngợp chỉ có các bãi cát nối tiếp nhau. Mỗi bước đi trên cát thật nặng nề, "đi một bước" mà "như lùi một bước", tiến về phía trước nhưng dường như người lữ khách lại đang ở vị trí ban đầu. Những bước chân của nhân vật trữ tình là những bước chân vô định, không xác định được phương hướng và đích đến. Ông chán ngán khi nhận ra sự mờ mịt của con đường công danh phía trước. Ông bất bình với thực trạng xã hội, bất bình với chế độ chính trị đương thời bởi đó là một xã hội trì trệ, bảo thủ.
Người lữ khách tự trách bản thân không "học" được "phép ngủ kĩ" của tiên ông để có thể thờ ơ, không quan tâm đến thời cuộc:
"Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng!
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng".
(Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Nếu có được phép ngủ thì tác giả đã không phải bận tâm đến sự đời, không phải bất bình với thực tại, không lo lắng cho đời sống nhân dân khổ cực. Nhưng suy cho cùng đó cũng chỉ là sự trốn tránh cuộc đời mà Cao Bá Quát thì không phải là con người hèn nhát như vậy. Từ đó cho thấy nhân cách cao đẹp của một nhà nho chân chính. "Trèo non", "lội suối" là những công việc cực nhọc, lữ khách tự oán trách bản thân cứ mãi theo đuổi con đường công danh dù biết trước đó là con đường nhọc nhằn đầy gian nan. Với các bậc nam nhi thuở xưa thì công danh là con đường duy nhất để họ lập thân, khẳng định tài năng của mình trước thiên hạ:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông"
(Nguyễn Công Trứ)
Bậc nam nhi sẽ có nỗi hổ thẹn lớn nếu không trả được nợ công danh cho cuộc đời:
"Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu"
(Phạm Ngũ Lão)
Cao Bá Quát đã nêu lên thực trạng về số người chạy theo danh lợi thì vô số còn số người nhận ra sự hư ảo của danh lợi thì rất ít. Chẳng vậy mà ông cất lên câu hỏi: "Người say vô số, tỉnh bao người"? Ông chua xót nhận ra con đường công danh bị biến tướng, mọi người lợi dụng nó để làm giàu cho bản thân. Con đường ấy đã gắn liền với thứ lợi danh tầm thường, người ta có thể đua chen, giẫm đạp lên nhau để đạt được mục đích. Họ tranh giành nhau chức quan để hưởng lợi lộc, tiền bạc, vật chất của cải. Thậm chí họ còn dùng những thủ đoạn xảo quyệt hãm hại nhau để tranh giành công danh. Cao Bá Quát đã ngầm so sánh sức cám dỗ của "phường danh lợi" cũng giống như sức cám dỗ của rượu. Men rượu nồng lôi cuốn người thưởng thức khiến người ta có thể say và mất tỉnh táo. Danh lợi cũng vậy, nó khiến con người chìm đắm trong sự đua chen, ích kỉ. Có vô số con người bị danh lợi làm cho mờ mắt nhưng có mấy ai tỉnh táo nhận ra được bản chất của nó? Lữ khách không bị men rượu quyến rũ cũng không bị danh lợi mê hoặc, ông vô cùng tỉnh táo nhưng cũng băn khoăn vì không biết có nên tiếp tục theo đuổi con đường công danh mà mình chán ngán hay không.
Dường như người lữ khách ấy đã rơi vào tuyệt vọng:
"Trường sa, trường sa nại cừ hà?
Thản lộ mang mang úy lộ đa.
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca,
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập"?
(Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?)
Cao Bá Quát đang tự vấn chính mình khi nhận ra con đường dẫn đến công danh không hề bằng phẳng, dễ dàng. Đó là con đường có nhiều hiểm nguy, ghê sợ. Ông rơi vào trạng thái cô đơn, bế tắc khi đối diện với thiên nhiên và cũng là sự bế tắc trước thời cuộc. Không có một con đường nào mở ra hướng giải thoát cho ông bởi bủa vây xung quanh người lữ khách bé nhỏ là núi Bắc, núi Nam trùng điệp, sóng dào dạt. Ông chỉ biết cất lên khúc "đường cùng" để bày tỏ nỗi niềm, tâm trạng. Tác giả đang loay hoay trong sự lựa chọn tiếp tục con đường công danh hay từ bỏ nó để có một cuộc đời, nhân cách trong sạch. Câu thơ cuối bài mang ý nghĩa như một lời thúc giục bản thân hãy hành động để thay đổi, vượt qua thực trạng bức bách, ngột ngạt. Nội dung câu hỏi đó cũng là sự dự báo về quyết định của người lữ khách rằng ông sẽ rời bỏ con đường công danh để chọn cho mình một hướng đi khác, một lí tưởng khác. Khi con đường công danh không còn vẹn nguyên giá trị cao quý, làm quan không còn để giúp dân, giúp nước nữa mà làm quan để tư lợi cá nhân thì không có lí do nào phù hợp để một người bản lĩnh, tài năng, cương trực như Cao Bá Quát tiếp tục theo đuổi?
Tác giả đã dùng thể ca hành không gò bó, giới hạn về số câu, niêm luật, vần điệu cùng việc sử dụng các hình ảnh tượng trưng để thể hiện tâm trạng của bản thân. Qua đó, bạn đọc thấy được nỗi buồn phiền, bế tắc, chán ngán chế độ chính trị đương thời và sự coi thường "phường danh lợi" của Cao Bá Quát. Đồng thời bài thơ cũng cho thấy hoài bão, lí tưởng của ông.