Thời kì văn học trung đại Việt Nam kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút đã chinh phục lòng người cho đến tận ngày hôm nay, đó là Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Hai nhà thơ tuy có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ lại có điểm khác nhau.
Trước hết chúng ta điểm qua hoàn cảnh của hai nhà thơ. Có thể thấy Nguyễn Khuyến (1835, tỉnh Hà Nam) và Tú Xương (1870, tỉnh Nam Định), tuy là hai nhà nho sống cùng thời, một già một trẻ nhưng cuộc đời của hai nhà nho ấy lại hoàn toàn khác nhau. Con đường công danh của Nguyễn Khuyến rất thành đạt (Tam Nguyên Yên Đổ). Ông từng làm quan mười năm, sau đso về sống ở nông thôn. Nguyễn Khuyến là một bậc chân nho, là đại diện khá tiêu biể cho lớp người được xã hội phong kiến đào tạo. Ông được vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ “Tam Nguyên”, tài năng lừng lẫy một thời. Đường công danh mở ra biết bao những vinh quang. Cuộc đời của ông sẽ chẳng có gì để ông có thể tự giễu mình với một giọng điệu chua chát đượm cảm giác ân hận nếu như tài năng ấy của ông thực sự cống hiến được cho dân, cho nước, cho đời. Ấy vậy mà bỗng nhiên Nguyễn Khuyến nhận ra thực chất cái xã hội đã đào tạo và tôn vinh mình. Và khi đạt đến đỉnh cao của vinh quang cũng là lúc ông thừa nhận sự bất lực của tầng lớp nho sĩ trước lịch sử. Nguyễn Khuyến là một trong rất ít những tri thức thời kì ấy sớm nhận ra sự bất lực của giai cấp mình, để rồi ông đã quyết định rời bỏ quan trường về quê để tránh xa sự nhố nhăng của xã hội, sự cám dỗ của đồng tiền.
Ngược lại, Tú Xương từ lúc sinh ra, lớn lên và cho đến lúc mất, ông đều sống ở nơi đô thị. Con đường công danh của Tú Xương mịt mùi, lận đận trong khoa cử để rồi liên tiếp những lần hỏng thi, vỡ mộng, thất vọng chán chường: tám lần thất bại (trừ một lần đậu tú tài). Bao nhiêu năm đèn sách đã vắt kiệt sức lực của nhà thơ. Trong xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang: tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ. Tú Xương lại là một người có tài văn chương thật sự. Tài của ông được mọi người công nhận, chỉ có một nơi duy nhất không chấp nhận, đó là quan trường, là hoan lộ.
Điểm giống nhau của Nguyễn Khuyến và Tú Xương là có nỗi niềm tâm sự giống nhau. Lời thơ của hai ông đều mang nặng lòng yêu thương đất nước, dân tộc, quê nhà.
Nguyễn Khuyến qua bức tranh phong cảnh mùa thu với vẻ đẹp thật sự của bầu trời mùa thu ở nông thôn Việt Nam đã gửi vào đó nỗi niềm tâm sự, thể hiện một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm. Bài thơ Thu điếu đã thể hiện được tâm sự này:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Cám cảnh thay nỗi “Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được” của nhà thơ! Ông như thể là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở đâu đây trong trời đất mang mang thiên cổ lụy. Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu, ao thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo”, như nhà thơ ngầm an ủi mình rằng còn cá tất nhiên còn nước …
Nỗi niềm tâm sự của thi sĩ Tú Xương cũng giống như Nguyễn Khuyến. Tú Xương luôn buồn đau trước vận nước, vận dân. Với giọng văn châm biến sâu cay, ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, thờ ơ với vận mệnh đất nước, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc … Tú Xương đã lên tiếng chất vấn họ trong bài thơ Vịnh khoa thi Hương:
“Nhân tài đất Bắc bào ai đó,
Nghoảnh cổ mà trong cảnh nước nhà”.
Hai bài thơ còn có nhiều điểm giống nhau là cùng ca ngợi hình ảnh người phụ nữ. Nguyễn Khuyến có bài “Mẹ Mốc”. Nhà thơ đã khắc họa hình tượng cảm động của một người đàn bà danh tiết có thật lúc bấy giờ: mẹ Mốc. “Mẹ Mốc” nhan sắc tuyệt trần đã giả vờ điên dại để dành trọn tâm tư cho chồng con đang ở xa:
So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
… Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ …
Tú Xương có bài Thượng vợ. Ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú tài, mọi việc ở nhà đều một tay bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ để thể hiện sự tri ân.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống càng hiếm hoi hơn. Thơ Tú Xương lại khác. Trong sáng tác của ông có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chông.
Điểm khác nhau giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương là giọng thơ. Nguyễn Khuyến, một nhà nho theo những chuẩn mực đạo đức nho giáo mang đến một giọng thơ nhẹ nhành, hóm hỉnh mà thâm thúy. Lời thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến thể hiện sự nhẹ nhàng, ý nhị, tinh tế, mộc mạc, đậm chất hình ảnh làng quê, phong tục cổ truyền Việt Nam. Hồn thơ của ông mang tính kinh điển, từ chương, niêm luật rõ ràng của thể thơ Đường luật, thể hiện khá rõ văn phong của một nhà nho.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bên cạnh những bài thơ trữ tình, Nguyễn Khuyến còn có một dòng thơ trào phúng của nhà nho, rất đậm nét và sinh động. Giọng điệu tự trào của ông thâm trầm mà kín đáo, nhưng cũng hết sức thâm thúy. Bằng những sáng tác thấm đãm chất trào lộng, Nguyễn Khuyến thực sự đã bộc lộ được tài năng trào phúng bậc thầy của mình. Có khi nhà thơ tự trào một cách trực tiếp trong bài Tự trào:
“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.
Kiểu cười tưởng như nhẹ nhàng nhưng hết sức thâm thúy và có sức công phá mãnh liệt. ông cười về vai trò lịch sử của mình trong chốn quan trường, kiểu cười chua chát, xót xa, ân hận: đại sự thì đã hỏng cả rồi mà mình thì gàn dở vô tích sự.
Còn Tú Xương được xem như một nhà nho thị dân. Ông mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng cay độc, bốp chát. Lời thơ của Tú Xương chua chát, nhằm mục đích mỉa mai, châm biếm xã hội phong kiến. Thơ Đường luật của Tú Xương mang tính phá cách, hiện thực, ngôn từ giản dị mà trau chuốt, dí dỏm mà sâu sắc. Nhà thơ có kiểu tự trào rất ác miệng với mình, tự thóa mạ mình như kiểu ông tự giễu bản thân mình vô tích sự giống như một đứa con lớn của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Nếu như khi cười về hình dáng bản thân mình Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng thâm thúy thì Tú Xương bốp chát chế giễu sự vô tích sự của mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tú Xương hay chữ mà lều chỗng đến tam khoa (từ 1885 đến 1906) chỉ được cái tú tài. Sự từng trải ấy sinh ra cái nhìn hiện thực trào lộng vỗ mặt vào thứ khoa cử cuối mùa, đào tạo tôi tớ cho thực dân xâm lược. Hiện thực ấy là hiện thực của thành Nam, nơi có trường thi lôi thôi sĩ tử. Bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Qua bài thơ này, tác giả vẽ lên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Xe kéo rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê phết đất, mụ đầm ra .
Vậy chúng ta có nhận xét chung như thế nào về hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương? Đoàn hồng Nguyên đã có ý kiến:
“Nếu thơ tự trào của Nguyễn Khuyến là kiểu thơ tự trào mang phong cách của một nhà nho thì kiểu tự trào của Tú Xương là kiểu tự trào thị dân, hiểu hình nhà nho thị dân”.
Nguyễn Khuyến là bậc đại nho với ba lần đỗ đầu vị thế “Tam nguyên” vẻ vang nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Vì lẽ đó mà tiếng cười Nguyễn Khuyến là tiếng cười của bậc bề trên, luôn ý thức cái hơn hẳn người đời về tài, đức; nó mang giọng nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại rất thâm thúy, chua cay. Với những điều ông viết ra, người đọc càng nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc trong lời thơ. Giáo sư Dương Quảng Hàm đã nhận xét về tính trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nguyễn Khuyến chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng kín đáo, rõ ràng bậc đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để khuyên răn người đời”.
Cũng là người có tài nhưng Tú Xương lại lận đận trong thi cử với “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, cuối cùng thi đỗ “Tú tài rốt bảng”. Hơn nữa Tú Xương sống ở chốn thành thị - nơi diễn ra rất sớm và rất tập trung lối sống lai căng, lỡm đời của buổi giao thời. Có lẽ vì thế mà giọng thơ trào phúng của Tú Xương gây tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sắc sảo đến bốp chát. Từ đó, thơ tự trào của Tú Xương mang một phong cách rất tiêng: ông không phụ thuộc hoàn toàn vào lốn sáng tác khuôn phép của nhà nho xưa. Thơ tự trào của ông có một sự bứt phá, đó là những cảm nhận của một nhà nho thị dân. Ông đã tạo cho mình một giọng điệu trào phúng rất tiêng, đầy ý thức cá nhân mà chúng ta gọi là kiểu trào phúng thành thị. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đánh giá Tú Xương là:
“Một người thợ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kì xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam”.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ xuất sắc, hai tài năng kiệt xuất của nền văn học Việt Nam. Trong thẳm sâu tâm hồn, hai nhà thơ vẫn coi trọng tài năng của nhau. Giai thoại sau đây cũng phần nào minh chứng cho suy nghĩ này. Khi Tú Xương mất, Nguyễn Khuyến đã đến viếng với câu thơ đầy xúc động như sau:
“Kìa ai chín suối xương không nát,
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn”.
Tóm lại, so sánh hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương, không phải xác định ai hơn ai mà để từ đó ta thấy được tài năng cũng như phong cách của từng nhà thơ. Cho dù đã trải qua hơn một trăm năm nhưng Nguyễn Khuyến và Tú Xương luôn để lại trong lòng người đọc sự yêu mến, kính trọng: một cụ Tam Nguyên Yên Đổ nhẹ nhàng mà sâu sắc, một ông Tú Vị Hoàng sắc sảo và dữ dội. Chính vì thế, tên tuổi và tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã được lưu truyền từ xưa cho đến nay và sẽ còn vang danh mãi đến mai sau. Bởi vì “văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.