Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Xác định nội dung chính của văn bản sau

*Xác định nội dung chính của văn bản sau: 
       "Bồng bồng mẹ bế con sang 
Đò dọc quan cấm đò ngang không chèo 
      Muốn sang thì bắc Cầu Kiều 
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy "
1 trả lời
Hỏi chi tiết
129
1
0
Từ khi được “lên chức” bố, tôi thường hay được nghe vợ và mẹ hát ru con, ru cháu bài ca dao:
Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo

Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
.
Hai câu thơ lục bát cuối của bài ca dao trên có lẽ là câu ca dao nổi tiếng nhất của Việt Nam, nổi tiếng vì ai cũng đã từng nghe từ hồi còn đi học trên ghế nhà trường, thường được nhắc lại nhiều nhất vào dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Về ý nghĩa, ai cũng hiểu câu ca dao nhắc nhở học trò phải biết tôn sư trọng đạo, biết yêu quý, kính trọng thầy cô giáo - một nét đẹp truyền thống trong văn hóa của người Việt từ xa xưa. Nhưng nếu có ai hỏi chi tiết hơn, cầu kiều là cầu gì, như thế nào thì không phải ai cũng đủ hiểu biết để trả lời. Tôi đã từng lúng túng khi một em bé hỏi như vậy, đành phải chống chế “cháu cứ tìm hiểu đi, để mai chú trả lời nhé” nhưng… mai dài hơn thuổng. Câu hỏi đó cách đây đã lâu, cháu bé ngày nào đã tìm ra câu trả lời, hay đã quên đi thắc mắc đó, cũng như có còn nhớ tôi còn nợ cháu một câu trả lời? Với một người bình thường cũng nên tìm hiểu huống hồ nếu bạn là một nhà giáo.
Đem thắc mắc này hỏi một số người hay chữ, có kiến thức sâu về tiếng Việt tôi đã phần nào giải đáp được thắc mắc của mình. Thì ra hiện nay “cầu kiều” vẫn tồn tại nhiều cách hiểu.
Theo PGS TS Phạm Văn Tình (Tổng Thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam) thì mục từ “cầu kiều” chưa có trong từ điển tiếng Việt.
Theo ông Hoàng Tuấn Công, tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân - Phê bình và Khảo cứu thì cầu kiều trong câu ca dao trên là gọi tắt của “thượng gia hạ kiều”- một cấu trúc cầu có phía trên là nhà, phía dưới là cầu, thường gặp nhất ở các tỉnh Bắc Bộ. Cầu thường là nơi nối liền đôi bờ giữa khung cảnh có cây cao, bóng cả, lòng sông vừa phải, thuận tiện thi công vòm trụ, mái cầu giúp người bộ hành khi vào cầu có thể trú mưa, tránh nắng, an toàn như mái nhà của mình. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan được cho là người tạo nên kiến trúc cầu này. Ví dụ tiêu biểu cho loại câu này là chùa Cầu ở Hội An (Quảng Nam), cầu ngói Nam Định. Trong câu dưới, “sang” được hiểu là “sang trọng” . “Sang” ở câu sáu và “hay” ở câu tám đều là tính từ, có tính chất đối nhau. Ông cũng cho biết thêm hai câu thơ đầu và sau của bài ca dao chỉ là gán ghép, không liên quan tới nhau.
 
Theo ông Trần Trọng Dương, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, từng giải đáp thắc mắc cho chuyên mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên Đài Tiếng nói Việt Nam thì kết cấu "cầu kiều" là đẳng lập, là cách các cụ dùng cho chữ nghĩa sang trọng. Vả lại, ở đây, viết thế cho dễ ... bắt vần với chữ "yêu" ở dưới. Chữ “sang” có thể là chơi chữ nước đôi, tức có thể hiểu là tính từ “sang trọng” hay động từ “đi sang”.
Tác giả Nguyễn Thị Bích An, giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh, một người rất quan tâm tới Tiếng Việt, từng là Quản trị viên ở mục Tiếng Việt của chúng ta trên Trường Xưa, trong bài viết “Về cách hiểu một câu ca dao” cho rằng: “Trong tiếng Việt cổ có một từ kiều dùng để chỉ cái yên ngựa. Ca dao còn nhiều câu ghi lại từ kiều với nghĩa là cái yên ngựa: Sông sâu ngựa lội ngập kiều/Dẫu anh có phụ còn nhiều nơi thương, hay: Ngựa ô anh thắng kiều vàng/Anh tra khớp bạc đón nàng về dinh.
Còn trong tiếng Hán, cành cây cao và cong cũng được gọi là kiều.
Như vậy, cầu kiều là loại cầu hình cong như cái yên ngựa. Người ta coi đây là một loại cầu đẹp và sang trọng bởi trước đây chỉ có các nhà quyền quý, giàu sang mới có hồ sen trong vườn, giữa hồ có lầu ngồi hóng mát, ngâm thơ. Để đi ra lầu, họ thường xây một chiếc cầu cong như hình cái yên ngựa. Cây cầu ấy gọi là cầu kiều, việc tồn tại của cầu kiều trong vườn nhà như là một biểu tượng, một minh chứng về sự giàu sang, quyền quý với những thú vui tao nhã. Và như thế, câu này phải được hiểu theo nghĩa: Muốn được coi là sang (trọng) thì hãy bắc cầu kiều, còn muốn con giỏi giang, tiến tới thì phải biết quý trọng người thầy. Cũng cần phải nói thêm là ở câu ca dao này, lượng thông tin chủ yếu tập trung ở câu thứ hai, vì thế nên nếu câu thứ nhất có được hiểu chưa chính xác thì cũng không làm sai lệch nội dung của toàn bài.”
Theo Giáo sư Trần Lâm Phát: “Có người cho rằng cầu kiều lấy từ điển tích trong thời Tam Quốc (220-264). Tào Tháo ra lịnh xây đài trên bờ sông Chương ở quận Nghiệp (nay thuộc huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam) để dưỡng tuổi già. Trong lúc đào móng, thợ bắt gặp một con chim sẻ bằng đồng nên Tào Tháo đặt tên đài là “Đồng Tước”. Đồng Tước gồm một đài chính và 2 đài phụ ở phía tây và phía đông gọi là Ngọc Long và Kim Phượng. Đài chính và 2 đài phụ được nối với nhau bằng 2 cây cầu vòng cung rất nguy nga tráng lệ… Giả thuyết này cũng không có gì chắc chắn vì không ai rỏ thời điểm xuất hiện hai câu ca dao. Có thể câu ca dao ra đời trước thời Tam quốc vì dân ta chịu ảnh hưởng sự giáo dục của Khổng Tử (551-479 trước Tây lịch) từ lâu đời”. Ông cho rằng “chữ kiều (喬)là cao mà cong là hợp tình hợp lý”.
Ngoài ra tôi cũng được biết thêm, cầu kiều là tên một loại cầu gồm một đoạn tre, một đầu gác lên bờ, một đầu được buộc vào đầu một sợi dây thừng, đầu trên của sợi dây được cố định tại điểm nối giữa ba cái cọc tre. Đi cầu kiều là một trò chơi dân gian phổ biến ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, hiện nay một số địa phương còn giữ được trò chơi này như tại Hưng Yên có: Lễ hội văn hóa vùng Phố Hiến, hội đền Tống Trân, hội làng Xuôi (huyện Tiên Lữ), Cẩm Quan (huyện Mỹ Hào), hội làng Đại Từ, Lộng Thượng (huyện Văn Lâm); tại Quảng Ninh có Lễ hội truyền thống đền An Sinh (thị xã Đông Triều); tại Hà Nam có Hội đình làng Đồng Lư Trung (Lý Nhân); tại Nghệ An có Lễ hội Đền Đức Hoàng (huyện Yên Thành); tại Hà Nội có Lễ hội truyền thống thôn Phù Xá (huyện Sóc Sơn)… Nhưng có lẽ cầu này để bắc cho vui chứ không phải bắc cho “sang” vì mục đích làm cầu là để thử tài khéo léo của người đi cầu, phần đông người chơi không đi được đến cuối cầu để lấy phần thưởng, bị ngã xuống nước làm người xem được những trận cười vui vẻ.
Trên đây là một vài cách hiểu “cầu kiều” của người thời nay.
Theo tác giả Nguyễn Hùng Vĩ, một người nghiên cứu văn học dân gian, thì khoảng trước năm 1995, trên Tạp chí Nguồn sáng của Hội Văn hóa dân gian Việt Nam đã có một cuộc trao đổi về hai câu ca dao này với nhiều ý kiến khác nhau.
Về dị bản, các tác giả sưu tầm và biên soạn bộ Kho tàng ca dao người Việt (Bản in 2001) do Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên, cho người đọc những chỉ dẫn về các dị bản của tác phẩm này từ cuối thế kỉ XVIII đến 1975 trên 14 tài liệu Hán, Nôm, Quốc ngữ khác nhau. Ta có thể tóm tắt trong bảng:
 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo