Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Vì sao nhà Ngô không đồng hóa được nhân dân ta?

vì sao nhà ngô không đồng hóa được nhân dân ta?

6 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
225
2
0
con cá
08/05/2020 19:15:40

Chính sách đồng hóa và di dân đối với [[]người Việt] ,phương Nam được các triều đại phong kiến Trung Quốc thực hiện từ khá sớm. Trung Quốc tự cho mình là nước lớn, coi các tộc người khác xung quanh là những tộc thấp kém, cần phải "giáo hóa" và gọi họ bằng những tên miệt thị như Man, Di, Nhung, Địch. Do tư tưởng tự tôn này, các triều đình Trung Quốc mang quân bành trướng, thôn tính các nước và tộc người xung quanh[1].

Nhà Tần sau khi thống nhất Trung Quốc đã tiến hành mở rộng đất đai. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư và Sử Lộc mang 50 vạn quân xuống chinh phục phía nam. Tới năm 214 TCN, nhà Tần lại sai Triệu Đà mang 50 vạn dân xuống ở những vùng đất mới đánh chiếm được, ở chung và bắt đầu đồng hóa người Việt. Đó được xem là cuộc đồng hóa chính thức có quy mô đầu tiên của một triều đại phong kiến Trung Quốc đối với người Việt phương nam[2].

Nhà Tần mất, Triệu Đà cát cứ ở nước Nam Việt thực hiện chính sách dung hòa Việt và người Hoa. Bản thân Triệu Đà để lấy lòng người bản địa cũng sống theo tục người Việt (tóc búi tó, ngồi xổm).

Sang thời Hán, việc thôn tính đất đai, mở rộng bờ cõi và đồng hóa trở thành một chủ trương lớn[2]. Để thực hiện việc đồng hóa triệt để, các vua nhà Hán chủ trương không chỉ di dân phương Bắc xuống phương nam mà còn truyền bá tư tưởng văn hóa phương bắc cho người Việt bản xứ.

Tư tưởng lễ giáo phong kiến Trung Hoa chính là tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử. Chữ Hán được dạy cho người Việt và trở thành công cụ để đồng hóa[3]. Những người tích cực thực hiện chủ trương này là Tích Quang, Nhâm Diên từ đầu thế kỷ 1.

Sau khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng (43), di binh người Hoa ở lại Giao Chỉ làm ăn lập nghiệp khá nhiều. Những người này được gọi là "Mã lưu"[4].

Chính sách đồng hóa của nhà Hán dẫn tới những cuộc di dân lớn của người Hoa khi đó. Tại Giao Chỉ, người Hoa ngày càng đông. Chính quyền các châu quận nhà Hán cho người Hoa "ở lẫn với người Việt", "lấy vợ người Việt" để dần dần xóa huyết tộc người Việt. Việc di cư của người Hoa xuống ở với người Việt diễn ra suốt thời Bắc thuộc, ngày càng trở thành trào lưu lớn[5].

Vùng Giao Chỉ xa xôi vẫn được dùng làm nơi đày ải những người Hoa phạm tội, trong đó có cả các sĩ phu như Âm Dật, Âm Xưởng đời Đông Hán, Cố Đàm, Cố Thừa, Trương Hưu, Trần Tuân, Ngu Phiên nước Đông Ngô thời Tam Quốc[6].

Một số khác là những quan lại người Hoa sang trấn trị nhưng cùng gia đình ở lại sau khi hết thời hạn. Trong số này có nhiều sĩ tộc ở Trung Nguyên, cùng với một số nhà truyền giáo.

Người Hán di cư sang Giao châu trong suốt thời Bắc thuộc, ban đầu do chính sách đồng hóa của chính quyền trung ương, về sau việc đó trở thành một trào lưu[5]. Trong số người di cư, có những người Hoa di cư không do yêu cầu của chính quyền mà xuất phát từ hoàn cảnh trong những thời loạn lạc hoặc những biến động trong triều đình trung ương do tranh chấp quyền lực, như Bùi Trung, Hứa Tĩnh thời Tam Quốc. Những nhân vật đóng vai trò lãnh đạo trên lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc như Sĩ Nhiếp, Lý Bí là tiêu biểu cho thế hệ sau nhiều đời của những người chạy loạn. Tương tự, theo các nguồn tài liệu thần phả thì là các nhân vật Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu cũng là thế hệ sau của Lã Tiệp người phương Bắc sang làm quan ở Vũ Ninh. Các thời kỳ loạn lạc có đông sĩ phu người Hoa xuống phương nam ở với người Việt như thời nhà Tân, thời Tam Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc, Ngũ đại Thập quốc. Trong số những người chạy loạn có những nhân vật khá nổi tiếng như nhà khoa học Cát Hồng sang làm quan lệnh ở huyện Câu Lậu[7].

Sau 500 năm độc lập, đầu thế kỷ 15 nước Đại Việt lại bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng. Nhà Minh tiếp tục chính sách đồng hóa như các triều đại chiếm đóng trước đây tiêu diệt dân tộc và văn hóa Đại Việt, với ý định tiếp tục biến thành quận huyện cai trị lâu dài, với việc thực hiện giết hại dân bản địa và thiến hoạn nhiều nam thanh niên gốc Việt[8]. Trường học được mở nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm. Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ[9].

Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Việc bành trướng và thực hiện đồng hóa phương Nam của các triều đại phong kiến phương Bắc trong thời gian đầu sở dĩ thực hiện được vì 2 lý do[10]:

  • Nhà Hán tổ chức những lực lượng quân sự to lớn, trong khi đó cơ cấu chính trị - xã hội của người Việt và các cư dân phi Hán tộc ở phía nam còn mang nặng kết cấu "vùng bộ lạc" với chế độ thủ lĩnh địa phương. Trên nền tảng văn minh lúa nước, kết cấu xóm làng đến vùng bộ lạc (với cái tên mới thời Bắc thuộc là huyện) vẫn mang nặng tính tự trị, làm chậm quá trình phát triển của kết cấu dân tộc - quốc gia. Nước Văn Lang, Âu Lạc cũng như các nước Việt phía bắc như Mân Việt, Đông Việt và cả Nam Việt chưa hoàn toàn thoát khỏi mô hình liên minh các vùng bộ lạc để hình thành vững chắc mô hình chế độ quân chủ trung ương tập quyền.
  • Sự chia rẽ trong nội bộ Việt tộc, như nhận xét của sử gia Tư Mã Thiên: "Âu Lạc tương công, Nam Việt động giao", nghĩa là Âu Lạc đánh lẫn nhau, Nam Việt rung động. Nhiều thủ lĩnh người Việt bị mua chuộc và cộng tác với triều đình phương Bắc, ngay từ thời Tần như Sử Lộc, qua thời Triệu tới thời Hán, như Hoàng Đồng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
con cá
08/05/2020 19:17:23
au 500 năm độc lập, đầu thế kỷ 15 nước Đại Việt lại bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng. Nhà Minh tiếp tục chính sách đồng hóa như các triều đại chiếm đóng trước đây tiêu diệt dân tộc và văn hóa Đại Việt, với ý định tiếp tục biến thành quận huyện cai trị lâu dài, với việc thực hiện giết hại dân bản địa và thiến hoạn nhiều nam thanh niên gốc Việt[8]. Trường học được mở nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm. Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ[9].
1
0
Chou
08/05/2020 19:20:55
Về mặt di truyền học:
là tổ tiên của người Trung Hoa nên người Việt có chỉ số đa dạng di truyền cao. Độ đa dạng di truyền chỉ có thể chuyển từ cao xuống thấp. Khi sinh ra con, cha mẹ san sẻ một phần “độ đậm đặc nòi giống” của mình cho đứa trẻ nên dòng huyết thống càng xa càng nhạt. Trong khi đó, con cháu không bao giờ lội ngược dòng trở lại “độ đậm đặc nòi giống” như cha ông. Có thể ví, dân tộc Việt Nam là một biển nước mặn mà mỗi người Hán xuống Việt Nam là một thùng nước lợ. Những thùng nước lợ hòa vào biển mặn không những không thể làm biển nhạt đi mà, cái thùng nước lợ bị mặn theo!

Về tiếng nói:
Việt Nam là nơi phát tích của dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là ngôn ngữ gốc với những đặc điểm: vốn từ phong phú, đa thanh, giọng nói sáng rõ và nhất là được nói theo trật tự chính trước phụ sau. Người từ Trung Hoa trở về Việt Nam – nói chính xác là trở về đất tổ - mang về ngôn ngữ bị pha trộn, biến dạng và nhất là cách nói ngược. Cố nhiên, người Việt không thích thú thứ tiếng nói như vậy để mà học!

Về hoàn cảnh lịch sử:
Lịch sử đã tạo ra ở Việt Nam cộng đồng làng xã vô cùng vững chắc, hữu hiệu chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài, ngay cả người khác xã. Người Hán hầu như không có cơ hội nhập tịch làng Việt Nam. Họ chỉ có thể tới sống nơi kẻ chợ, hành nghề làm thuê hay buôn bán và được gọi bằng danh xưng: thằng Ngô, chú Khách. Mặt khác, dù âm mưu đồng hóa là kiên trì và thâm độc nhưng do sức phản kháng kiên cường của người Việt, nên nhiều viên quan buộc phải ngó lơ những yêu cầu khắt khe của triều đình, cốt sao thu được thuế và giữ được ổn định. Một đặc điểm khác là, do bên trong Trung Quốc luôn xảy ra bạo loạn, đảo chính nên sự thống trị nhiều khi bị buông lỏng. Những lúc như vậy, tinh thần Việt được phục hưng. Một điều nữa phải nói là may mắn: suốt trong nhiều thế kỷ người Hán nói tiếng Việt rồi để lại Đường âm, một thành tựu tuyệt vời về ngữ âm. Nhưng ngay sau đó, nước ta giành lại quyền tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ. Ta dùng Đường âm như một quốc bảo làm quốc ngữ mãi tới sau này. Trong khi đó, Trung Quốc luôn loạn lạc, các tộc người phương Bắc xâm chiếm, thống trị khiến tiếng nói biến đổi theo. Đường âm bị mai một. Do là nước độc lập, chúng ta không buộc phải học những thứ quan thoại của phương Bắc. Vì vậy giữ được tiếng nói của mình.


 
1
0
Chou
08/05/2020 19:21:15
sau 500 năm độc lập, đầu thế kỷ 15 nước Đại Việt lại bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng. Nhà Minh tiếp tục chính sách đồng hóa như các triều đại chiếm đóng trước đây tiêu diệt dân tộc và văn hóa Đại Việt, với ý định tiếp tục biến thành quận huyện cai trị lâu dài, với việc thực hiện giết hại dân bản địa và thiến hoạn nhiều nam thanh niên gốc Việt[8]. Trường học được mở nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm. Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ[9].
1
0
Chou
08/05/2020 19:21:39

Như vậy: toàn bộ hệ thống cách đọc Đường âm được mang từ Tràng An sang mà hoàn toàn không phải sản phẩm sáng tạo của người Việt Nam! Lẽ đương nhiên, việc người Việt không bị đồng hóa không liên quan gì tới từ Hán Việt!

1
0
『༺ Lynx ༻』 ❤ ...
08/05/2020 19:22:22
các  bạn cho lời giải ngắn ngắn thôi nhá
           thank you

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×