Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của em về một nhân vật văn học trong nhà trường mà em yêu thích. Trong đoạn văn có sử dụng một câu hỏi tu từ và một câu ghép

Viết đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của em về một nhân vật văn học trong nhà trường mà em yêu thích. Trong đoạn văn có sử dụng một câu hỏi tu từ và một câu ghép.

3 trả lời
Hỏi chi tiết
404
2
0
Hà Minh Đức
22/09/2020 23:18:49
+5đ tặng
Trong văn bản "Buổi học cuối cùng", nhân vật cậu bé Ph-răng đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu sắc. Thật vậy, nhân vật Ph-răng là một cậu bé ham chơi nay được đặt vào trong tình huống không bao giờ được học tiếng mẹ đẻ nữa, chính vì vậy, cậu đã bộc lộ những phẩm chất đáng quý. Đầu tiên, Ph-răng là cậu bé ham chơi. Dường như, cậu bé thích nô đùa với thiên nhiên hơn là đi học. Cậu không thuộc bài,hay trốn học và thường xuyên bị thầy giáo Ha-men trách phạt. Thứ hai, cậu bé Ph-răng đã thức tỉnh được tình yêu tiếng Pháp của mình khi nhận ra đây là buổi học tiếng mẹ đẻ cuối cùng. Điều này được thể hiện rất rõ trong diễn biến tâm lý của cậu. Thứ nhất, cậu ngạc nhiên vì những điều khác thường khi đến trường. Khi biết được đây là buổi học cuối cùng, tâm trạng của cậu choáng váng, sững sờ, bất ngờ và xúc động và thương thầy giáo biết bao. Sau đó, cậu cảm thấy nuối tiếc vì sự lười nhác học tập và sự ham chơi đi bắt những chú chim, giờ đây muốn được học tiếng mẹ đẻ cũng chẳng thể được nữa. Bên cạnh đó, cậu cũng thấy ân hận khi không thuộc bài và không đọc được chữ Pháp. Khác với mọi khi, ở buổi học hôm ấy, khi thầy Hamen giảng, cậu đã chăm chú nghe, thấy rõ ràng, dễ hiểu khác với trước đây thấy phức tạp, rắc rối, khó hiểu và thấy yêu thầy, thương thầy biết ơn thầy, tự nhủ sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này. Ta có thể thấy, Ph-răng đã giác ngộ và hiểu ra giá trị của việc học tiếng mẹ đẻ, tha thiết muốn được học, được nói tiếng nói của dân tộc. Cậu ân hận vì những tháng ngày ham chơi của mình. Chẳng những thế, cậu còn hiểu được lời thầy Ha-men rằng, tiếng mẹ đẻ chính là chìa khóa thoát khỏi chốn lao tù. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước. Tóm lại, Ph-răng là cậu bé ham chơi nhưng bên trong cậu cũng có những tình cảm cao đẹp, đó là sự kính trọng thầy giáo, lòng tự tôn dân tộc và lòng yêu nước.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Hà Minh Đức
22/09/2020 23:21:10
+4đ tặng

Vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu trước hết là vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng, thương con. Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa được thả sau những đánh trận đánh nhừ tử vì không đủ tiền nộp sưu thuế. Đón chồng về trong tình trạng đau yếu tưởng như sắp chết mà trong nhà cũng chẳng có gì ngon để tẩm bổ, may thay người hàng xóm thương tình cho vay bát gạo nấu cháo cho chồng ăn lại sức. Cháo chín, chị ngồi quạt đợi cho cháo nguội rồi ân cần nâng chồng dậy, dịu dàng như nịnh nọt nói với chồng: "Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột". Chị hãy còn để ý xem chồng ăn có ngon miệng hay không. Chính những hình ảnh, cử chỉ đó đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của một người vợ đối với người chồng dù đang trong cơn khốn khó.

Không những thế, khi anh Dậu vừa mới kề bát cháo lên miệng thì bọn cường hào lại tìm đến nhà lôi ra đánh đập. Thương người chồng ốm yếu, chị không quản ngại mà quý xuống van xin cai lệ: "Cháu xin ông", "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!". Tuy thế nhưng tiếng kêu van của chị không làm cho đám cường hao có một chút động lòng, chúng cứ thế xông vào trói anh Dậu. Bị dồn vào thế chân tường, không còn con đường nào khác, chị đã tức thì đánh trả lại bọn chúng để bảo vệ người chồng đau yếu không còn chút sức kháng cự. Hành động ấy cũng đã chứng tỏ tình yêu thương của chị đối với chồng bất chấp cả cường quyền bạo ngược.

Yêu chồng, thương con, chị Dậu đau như đứt từng khúc ruột khi phải bán đứa con đầu lòng ngoan ngoãn hiếu thảo. Người đọc có thể thấy rằng chị Dậu là người mẹ tàn nhẫn, vì "hỗ dữ không ăn thịt con" vậy mà ở đây chị Dậu lại nhẫn tâm bán con cho nhà Nghị Quế. Nhưng không phải vậy. Người mẹ như chị phải bán đứa con mình đứt ruột đẻ ra mới biết nó đau đớn thế nào. Chị nghĩ rằng, sau khi chồng chị được tha về, hai vợ chồng sẽ làm ăn rồi chuộc con. Hơn nữa, cái Tí cũng được vào nhà Nghị Quế sang giàu, tuy chẳng mong cao sang tốt đẹp gì nhưng như thế có khi còn hơn ở nhà. Với tất cả tình yêu dành cho chồng, cho con, chị Dậu chính là một người phụ nữ Việt Nam có những phẩm hạnh rất đáng quý và đáng trân trọng.

Ở nhân vật chị Dậu, người đọc còn thấy vẻ đẹp của một người phụ nữ giàu đức hy sinh. Cảnh nhà quẫn bách, chồng bị bắt trói vì không có tiền nộp sưu, chị Dậu phải cáng đáng vai trò là trụ cột trong cái gia đình khốn khổ ấy. Một mình chị phải chạy vạy khắp nơi, phải bán chó, bán con để lấy tiền nộp sưu cứu chồng khỏi vòng lao lý. Chị đã phải tất tả ngược xuôi, đổ bao mồ hôi nước mắt để đón chồng về trong cái tình trạng chỉ như cái xác không hồn. Thế nhưng, dù khổ cực hay đau xót, người phụ nữ ấy chỉ rơi những giọt nước mắt lặng lẽ chứ không hề một lời kêu than. Một người phụ nữ Việt Nam thật nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu!

Nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu nhưng đó cũng chưa phải là tất cả vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu. Ở người phụ nữ này còn toát lên tinh thần phản kháng mãnh liệt. Chính trong cái tình cảnh chứng kiến người chồng chuẩn bị lôi đi, tình yêu chồng và lòng căm thù bọn ác bá cường hào đã thôi thúc chị vùng lên dữ dội.

Khi chị đã hết lời van xin nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho, cố tình sấn đến định bắt anh Dậu thì lúc này chị Dậu đã cảnh cáo: "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ". Câu nói đầy cứng rắn, có đủ tình, đủ lí nhưng không ngăn nổi cái ác tiếp diễn. Tên cai lệ sấn tới tát chị và chính cái tát ấy như lửa đổ thêm dầu, làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, chị nghiến hai hàm răng: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!". Tên cai lệ chưa kịp làm gì thêm thì đã bị chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất". Còn tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu "túm tóc, lẳng cho cho một cái, ngã nhào ra thềm".

Có thể thấy sự chuyển biến tâm lý và hành động rất mạnh mẽ ở nhân vật trong tình cảnh này. Từ một người phụ nữ nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ sệt lũ tay sai thúc thuế, chị đã dám phản kháng chống lại uy quyền. Đến lúc này thì nỗi căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, nỗi sợ hãi cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, thay vào đó là một bản lĩnh quật khởi rất cứng cỏi: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được".

Tức nước thì vỡ bỡ, có áp bức thì tất có đấu tranh là một quy luật tất yếu. Tuy vậy, sự đấu tranh của chị Dậu chỉ là hành động mang tính bộc phát chứ không có tính định hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả một chế độ phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối như chính của cuộc đời của mình.

2
0
Hà Minh Đức
22/09/2020 23:23:27
+3đ tặng

Cuộc đời xô đẩy khiến người cha hết mực yêu thương con không cách nào nhìn thấy con lần cuối đã phải rời xa cuộc sống này. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt.

Khi một tác phẩm văn học khép lại, không có nghĩa là nó đã kết thúc mà có lẽ nó vẫn tiếp tục sống trong trái tim độc giả với những hình tượng mà tác giả xây dựng. Một trong những tác phẩm có sức sống mãnh liệt như thế là “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao. Dưới ngòi bút của nhà văn hiện thực nhân đạo sâu sắc, nhân vật Lão Hạc đã thực sự gây ấn tượng với người đọc bởi vẻ đẹp nhân cách và cuộc đời quá đỗi đớn đau.

Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý. Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân dù bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, nhiều bi kịch nhưng vẫn giữ vẻ đẹp tâm hồn trong sáng.

Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi dài bi thảm. Vợ lão mất sớm, một mình lão gà trống nuôi con. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Ngày này qua ngày khác, lão mòn mỏi mong con trở về trong cô độc khi không có ai chăm sóc, chỉ có con chó Vàng - kỉ vật của con bầu bạn cùng. Lão sống, trong cái đói nghèo và đơn độc. Đói, nghèo, lão quyết giữ mảnh vườn cho con, nhưng không thoát khỏi bi kịch cuộc đời. Cái đói nghèo khiến lão phải đớn đau bán đi người bạn duy nhất của lão, chỗ dựa cuối cùng của lão – cậu Vàng. Đứng trước sự xô đẩy của cuộc đời và con đường tha hóa, để giữ được tấm lòng thanh sạch của mình, lão phải ăn bả chó tự tử, chết đau đớn, xót xa. Cuộc đời của lão Hạc là một cuộc đời đơn độc, quay quắt trong cái đói nghèo, bị cái đói nghèo đày đọa. Nam Cao đã thông qua cuộc đời nhiều bi kịch đó của lão Hạc để tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, dồn người nông dân tới bước đường cùng.

Trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, nhân cách đẹp đẽ của lão Hạc vô cùng nổi bật. Trước tiên là tấm lòng vị tha, nhân hậu. Với cậu Vàng – kỉ vật của con trai lão, lão yêu quí nó như “một bà mẹ hiếm hoi yêu quý đứa con cầu tự”. Lão cưng nựng, vỗ về, vuốt ve nó; cho nó ăn cơm như nhà giàu ăn cơm bát; lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng, lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí có phần hơn lão… Lão cũng coi nó như một người bạn, ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là một con người.

Với người con trai đã bỏ đi đồn điền cao su, lão yêu thương rất rất nhiều. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, rời quê hương đi đồn điền mà lão tự dằn vặt, ân hận mãi. Lúc con đòi bán vườn cưới vợ, lão không cho vì muốn giữ mảnh vườn cho con, nghĩ nếu cưới vợ mà bán thì về rồi sẽ sinh sống nơi đâu? Nhưng con trai lão không hiểu cho lão. Anh ta bỏ đi, để lại lão ở nhà vò võ chờ con. Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa mình. Những câu nói lão nói với cậu Vàng chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho con. Lão nói với cậu Vàng nhưng lại giống như nói với con mình. Lão yêu thương con vô bờ bến, làm việc gì, suy nghĩ gì cũng hướng về con trai. Tiền bòn vườn lão để dành cho con, nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.

Thế nhưng, trời bắt tội, lão Hạc ốm. Cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu đến số tiền đã dành dụm đó. Lão đã đau lòng biết bao khi phải dùng vào tiền cho con trai. Không những thế, vừa khỏi ốm, lão đã vội gửi ông giáo mảnh vườn cho con và tiền dành dụm. Thậm chí, lựa chọn cuối cùng của lão, cái chết của lão cũng là vì con. Lão chết không chỉ bởi muốn giữ nhân cách trong sạch mà còn muốn mở ra đường sống cho con lão bởi lão cho rằng sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy.

Cha mẹ vì con có thể chịu đựng, hi sinh tất cả, nhưng lựa chọn hi sinh cả tính mạng vì con như lão Hạc thực sự là chuyện đặc biệt xót xa. Cuộc đời xô đấy khiến người cha hết mực yêu thương con không cách nào nhìn thấy con lần cuối đã phải rời xa cuộc sống này. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Nó lặng lẽ trong tâm tưởng nhưng quyết liệt trong hành động. Tình yêu thương ấy quả thực vô cùng cảm động.

Là người cha hết mực yêu thương con, Lão Hạc còn mang trong mình tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình. Bán đi một con chó – con vật mà người ta nuôi vốn để bán, để giết thịt mà lão ám ảnh day dứt không nguôi. Lão tự trách mình vì “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”, nhớ ánh mắt của cậu Vàng mà dằn vặt không yên. Ngay cả lúc khó khăn tột cùng, lão vẫn từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Lão tự chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua, ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Lão xin Binh Tư ít bả chó để tự tử, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão, từ chối con đường tha hóa, đánh mất nhân cách.

Lão ăn bả chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn,… Cái chết của lão đầy xót xa và ám ảnh, nó là biểu hiện quyết liệt nhất cho lòng tự trọng của người nông dân chính trực tuy nghèo nhưng trong sạch. Chết là bi kịch là đớn đau, nhưng đồng thời cũng là con đường giải thoát cho cuộc đời nhiều gò ép, bất hạnh của lão Hạc, tạo nên hình tượng vô cùng đẹp đẽ.

Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp những người nông dân trong xã hội cũ: tuy đói nghèo nhưng có những phẩm chất cao đẹp. Với cốt truyện sâu sắc, phong cách kể chuyện độc đáo, lão Hạc hiện lên là nhân vật vô cùng đẹp đẽ, với tấm lòng và nhân cách đáng trân trọng. Qua cái nhìn của ông giáo – một nhà trí thức, Nam Cao đã gián tiếp thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra những vấn đề triết lý nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt, tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật khéo léo. Tâm lý lão Hạc được thể hiện qua những hành động, lời nói, nhiều đoạn đối thoại mà như độc thoại. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng nhiều khẩu ngữ, làm câu chuyện chân thực, sinh động, gần gũi với người nông dân.

Những thành công về nội dung và nghệ thuật, đặc biệt là cuộc đời và vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc đã góp phần đưa truyện ngắn cùng tên trở thành một trong số những tác phẩm tiêu biểu của thời đại. Đặc biệt, hình tượng nhân vật lão Hạc đã trở thành hình tượng điển hình, tiêu biểu cho cả một tầng lớp đáng trân trọng của xã hội.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư