Đứng đầu tỉnh Yên Bái là viên Tuần phủ, nhưng thực quyền định đoạt mọi việc là tên Công sứ Pháp. Công sứ nắm, kiểm soát bên dưới thông qua bọn quan lại tay sai, tầng lớp trên của xã hội là thổ hào phong kiến, phìa tạo, bằng cách nhả cho bọn này một số quyền lợi và dựa vào bọn mật thám, bọn đội lốt tôn giáo cùng với bọn võ quan Pháp là chủ các đồn điền. Hệ thống kiểm soát này rất phức tạp, thiên về đàn áp. Những kẻ trong hệ thống có đặc quyền, đặc lợi rất lớn. Còn đối tượng của hệ thống là nhân dân không có chút quyền dân chủ nào.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp là chia để trị, giữa người lương và giáo, nội bộ từng dân tộc với nhau, giữa người Kinh với các dân tộc anh em khác. Sau khởi nghĩa Giáp Dần (1913-1914) bọn chúng bắt người Tày đi đàn áp người Dao và xuyên tạc rằng người Dao nổi dậy giết người Tày lấy lúa, giết người Kinh lấy muối. Âm mưu của giặc là chia rẽ lực lượng, phá vỡ khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chúng dễ bề đàn áp, thống trị.
“Bình định” xong, thực dân Pháp chuyển sang khai thác thuộc địa theo chương trình của Pôn Đu-me và An-be Xa- rô. Ở Yên Bái, chúng thực hiện chính sách phản động, một mặt duy trì kinh tế phong kiến (sở hữu phong kiến, bóc lột địa tô, “cuông”, “nguột”), mặt khác chúng vơ vét tài nguyên, sản phẩm, bóc lột nhân công rẻ mạt để phục vụ cho công nghiệp chính quốc và biến Yên Bái thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho Pháp. Năm 1928, Tòa sứ Yên Bái nhận 193 đơn xin khai thác mỏ, 285 đơn xin khai thác lâm sản, gần 100 nhà tư sản, võ quan, địa chủ Pháp xin mở đồn điền.
Để phục vụ chương trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp thực hiện chính sách thuế khóa hết sức nặng nề, dã man. Thuế đinh (hay thuế thân), trước khi Pháp xâm lược, nhà Nguyễn thu mỗi suất đinh 1,4 hào, thì ngay khi Pháp chiếm Yên Bái đã nâng lên 5 hào. Ở vùng dân tộc ít người, chúng dùng cách đánh thuế “kiếm ốc” tính theo số nóc nhà, mỗi nhà phải nộp mỗi suất 1,3 đồng (2,5 đồng bằng một tạ gạo ngon). Ngoài ra, còn hàng trăm khoản phụ thu, lạm bổ đánh vào người lao động. Riêng khoản thuế chính ngạch của Yên Bái năm 1932 trị giá 1.840 tấn thóc. Về thuế điền, thực dân Pháp chia ruộng vùng người Kinh làm 5 hạng, hạng một thu 2 đồng/mẫu Bắc bộ, hạng năm thu 2 hào/mẫu. Đối với vùng đồng bào dân tộc, chúng chỉ chia ruộng làm 2 hạng, hạng một thu 7,2 đồng/ mẫu, hạng hai thu 5,2 đồng/mẫu. Sở dĩ có sự chênh lệch mức thuế điền giữa cùng người Kinh và vùng đồng bào các dân tộc là do hầu hết ruộng ở vùng người Kinh đã bị các chủ đồn điền Pháp cướp đoạt, nên được ưu đãi, chỉ đánh thuế nhẹ. Thuế đồn điền tăng, trong khi đó diện tích 1 mẫu Bắc Bộ so trước lại giảm từ 4.970m2/mẫu xuống còn 3.600m2/mẫu, trong điều kiện năng suất không tăng thì thu nhập của người nông dân đã giảm đi. Muối ăn rất khan hiếm ở miền núi, bị đánh thuế rất nặng, từ năm 1928 đến n