Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội.
Bên cạnh những "hiền nhân quân tử" là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
(hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”.