Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
....
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...".
Bài làm 1
"Vội vàng" là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập "Thơ thơ" (1938) của thi sĩ Xuân Diệu "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống,... cùng với một giọng thơ nồng nhiệt, đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần hai bài "Vội vàng" nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
...
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...".
Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt nhịp 3/5, đọc lên cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian:
"Xuân đương tới / nghĩa là xuân đương qua,
...
Xuân còn non / nghĩa là xuân sẽ già".
Các từ ngữ: "đương tới" với "đương qua", "còn non" với "sẽgià" tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại "đương tới" đã có màu li biệt "đương qua". Chữ "đương tới" chuyển thành chữ "đương qua", một cách nói điệu đà, rất thơ. Trong dáng vẻ "còn non" hôm nay đã báo hiệu một tương lai "sẽ già". Cách cảm nhận của thi sĩ về thòi gian và mùa xuân rất tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng một chữ "non" và một chữ "già" ấy, ông có những cách cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạn với cặp mắt xanh non:
"Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết,
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt...
...
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi..."
(Giục giã)
Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và đổi thay không ngừng. Mùa xuân, thời gian và sự sống thật vô cùng kì diệu:
"Mấy hôm trước còn hoa
Mới thơm đây ngào ngạt
Thoáng như một nghi ngờ
Trái đã liền có thật".
(Quả sấu non trên cao)
Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi trẻ, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là bi kịch của con người, đời người. Khi "xuân hết", tuổi trẻ qua đi "nghĩa là tôi cũng mất". Mất ý vị cuộc đời. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở ỉại:
"Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất".
"Lượng trời cứ chật" mà "lòng tôi rộng", muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã: "Không cho dài thời trẻ của nhân gian". "Hảo hoa vô bách nhật - Nhân thọ vô bách tuế" (Nguyễn Du). "Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi.." (tục ngữ). Một lần nữa thi si lại đặt ngôn ngữ trong thế tương phản giữa "rộng" với "chật", để nói lên cái nghịch lí của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian:
"Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian".
Xuân của bốn mùa thì tuần hoàn ("xuân mãn rồi, xuân lại tái lai" - cổ thi) nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trẻ "chẳng hai lần thắm lại". Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn, trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều bi kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cũng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than tiếc nuối:
"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lai!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời".
"Tiếc cả đất trời" vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc đời. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ:
"Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc,
Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa!
Hỡi chàng trai kiều diễm mãi vui ca,
Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!".
(Đẹp - Xuân Diệu)
"Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại" cũng như "Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!", đó là bi kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc bi kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời gian và tuổi trẻ.
Hai câu cuối dào dạt cảm xúc. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng "than thầm tiễn biệt" của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua "mùi", "vị" của năm tháng "chia phối trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế:
"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".
Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc và biểu hiện, diễn đạt. Một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi trữ tình của thi sĩ được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sống trong tình yêu - đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn – "Vội vàng" không có nghĩa là sống gấp, như ai đó đã nói.
Bài làm 2
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in trong tập Thơ thơ, xuất bản lần dầu năm 1938. "Vội vàng" là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thông. Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện cảm xúc: vui, rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ một tâm hồn yêu đời:
"Tôi muốn tất nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ khẳng định ý chí của chủ thể trữ tình cái "tôi" muốn tắt nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương bay đi, để được hưởng thụ nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn tác động vào vũ trũ để nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó trong hiện tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn. Đó là một ý nguyện chủ quan của thi sĩ.
Điều đó dường như vô lí "xa vời cuộc sống", "thoát li hiện thực" nhưng nó lại có lý trong tâm hồn: say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống của thi sĩ. Đó là những vần thơ dạt dào cảm hứng của một tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu cuộc sống.
Tình yêu thiên nhiên một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng sự cảm nhận của Xuân Điệu - thi sĩ "mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh) thật lạ. Dường như mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi âm thanh, mọi sắc màu, đón nhận cái hữu hình và cả cái vô hình vấn vương của tạo hóa. Từ ý nguyện dẫn đến hành động, ý nguyện giữ mãi cuộc sống, để hưởng thụ cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của tác giả khi chợt đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật ngon lành đang dạt dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi".
Điệp ngữ "này đây" liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả mùa xuân: hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến anh khúc hát tình ca say mê cuồng nhiệt trong tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Trước màu xuân tươi đẹp ấy ai mà không rung động? Vậy thì tâm hồn thi sĩ Xuân Diệu sao lại không say trong chập chờn của "ong bướm" ngày xuân đang vào độ tràn đầy hạnh phúc bên "yến oanh" quấn quýt để hưởng "khúc tình si" ? Không xao xuyến đến nao lòng sao được trước cái mát mẻ, tươi non của sắc "Hoa của đồng nội xanh rì" và lá non bên "cành tơ phơ phất" ?
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống. Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống thanh xuân bằng cặp mắt - cặp mắt "xanh non", cặp mắt "biếc rờn" ngơ ngác và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra biết bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế giới thiên nhiên và con người trần thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón nhận và cao hơn nữa là sự níu giữa sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của mình. Điều đó giải thích tại sao "tôi muốn", lí giải ý nguyện của mình vì: Mùa xuân đẹp lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến tâm hồn thi sĩ như cất lên tiếng reo vui:
"Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa"
Vẻ đẹp mùa xuân một vẻ đẹp say đắm, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp thực của trần thế rất bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên thơ mộng huyền ảo và hấp dẫn mà Thế Lữ đã tìm ra:
"Trời cao, xanh ngắt - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga"
(Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm nhận thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta nhưng nó đẹp một vẻ tươi trẻ, say đắm, nó hợp với con người nơi trần thế và trong vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui, rộn ràng và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần".
Hình ảnh thơ thật độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so sánh khái niệm thơi gian "tháng giêng" một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể "cặp môi" và truyền cho ngươi đọc một cảm giác thật cụ thể "ngon", "gần" …
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự ý thức được về thời gian:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp hấp dẫn làm cho thi sĩ "sung sướng" nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ phải "vội vàng", phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải hưởng thụ ngay cái vẻ say đắm của nó trong hiện tại, phải tận hưởng mùa xuân khi nó còn tươi non, hấp dẫn và phải hưởng thụ ngay khi nó còn "mới bắt đầu" để sau nay khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến nhưng rồi nhà thơ chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng điệp ngữ, sử đụng biện pháp thậm xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã mấy ai dám bộc lộ tiếng nói cương quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của Xuân Diệu?
Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân với một hình ảnh cụ thể, rất thực "cặp môi gần" trong tình yêu lứa đôi, vật chất hóa khái niệm trừu tượng là thời gian để ca ngợi vẻ hấp dẫn của mùa tháng giêng, mùa xuân. Không có tình yêu tha thiết, yêu cuộc sống đến mức cuồng nhiệt làm sao có được những vần thơ mê say và cháy bỏng ấy.
Ta hãy lật giở những trang thơ mùa xuân của các thi sĩ xưa và nay xem họ tìm thấy và cảm nhận được những gì ở mùa xuân:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Một vẻ dẹp kiều diễm. Còn đây hình ảnh rất gần gũi, bình dị nhưng gợi buồn:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
(Chiều xuân -Anh Thơ)
Còn mùa xuân ở đây rất đẹp, tràn trề sức sống, rạo rực niềm vui:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
"Nhà thơ thực đã đón nhận mùa xuân với tất cả tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn... Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe cả bằng trái tim xáo động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo" (Vũ Dương Quỹ).
Còn dây nữa, sự cảm nhận mùa xuân của một tâm hồn cách chúng ta sáu thế kỉ đó là Nguyễn Trãi:
"Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đây buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem"
(Cây chuối)
Một sự giao cảm của thiên nhiên, một hình ảnh rất thực, đẹp đẽ và thanh tú nhưng cũng hết sức phong tình. Bài thơ làm ta liên tưởng một mối tình vừa chớm nở trong trắng, say đắm, kín đáo, e ấp. Điều đó càng làm cho chúng ta thấy rõ: xưa và nay các nhà thơ đã viết và viết nhiều về mùa xuân nhưng nó rất giản dị, rất đời thường và có chăng cũng chỉ bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị như Nguyễn Trãi đã viết trong bài thơ trên mà thôi. Và càng chứng minh cho chúng ta thấy sự táo bạo của Xuân Diệu.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống bằng con mắt tươi non và từ đó diễn tả niềm ham sống say mê, mãnh liệt, một khát vọng hưởng thụ vẻ đẹp có thực nơi trần thế.
Niềm khao khát giao cảm với đời đặt vào hoàn cảnh thanh niên sống trong nỗi sầu thế kỉ, nỗi buồn thời đại, những dòng thơ này có ý nghĩa giúp cho con người tình yêu cuộc sống và tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, giúp cho chúng ta mỗi con người phải biết quý trọng tuổi thanh xuân của mình, tuổi thanh xuân không bao giờ trở lại để cho mỗi chúng ta sau này không phải ân hận, nuối tiếc. Đoạn thơ cũng thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ.
Tuy Xuân Diệu không nói đến sự cống hiến nhưng chúng ta phải nhận thức được điều đó: yêu đời, yêu cuộc sống để có trách nhiệm với đời, để làm cho cuộc sống có ý nghĩa xứng đáng chứ không phải chỉ tận hưởng, hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất của mùa xuân của tuổi thanh xuân cho thỏa mãn.
Đoạn thơ càng làm cho chúng ta hiểu hơn về Xuân Diệu một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sông đến cuồng nhiệt và hiểu được cách nhìn, đón nhận và cảm xúc của ông khi mùa xuân đến. Đoạn thơ cũng giúp cho chúng ta càng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống hơn. Thật đáng trân trọng biết bao một tâm hồn một nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình đời đã, đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng những người biết và yêu thơ ông.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |