Bằng Việt sinh năm 1941, quê tỉnh Hà Tây. Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thơ Bằng Việt sâu trầm, tinh tế, bình dị dễ làm lay động lòng người. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả rời xa quê hương học ngành luật ở Nga. Từ xa tổ quốc, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ, nhớ về quê hương vẫn còn đang trong cuộc chiến đau thương mất mát. Đặc biệt hình ảnh bế lửa nồng đượm và người bà hiền hậu đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Mở đầu bài thơ hiện lên hình ảnh bếp lửa ấm áp trong làn sương lạnh chốn đồng quê:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm lên.
Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm vào cả lòng người.
Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Hai từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp hằng ngày.
Từ đôi bàn tay cằn cỗi bà, ngọn lửa đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn đã rất nồng ấm trong tim người cháu:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ngọn lửa ấy đã trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù đang còn biết bao gian khổ, nguy nan.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng, nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà. Cụm từ bếp lửa được lặp lại, khắc họa rõ nét và làm hiện hình bếp lửa ấm áp và xa vời trong kí ức, từ hình ảnh bếp lửa bà tư về với quá khứ xa xôi năm 4 tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn. Năm lên bốn tuổi, người cháu đã biết cùng bà nhóm lửa. Đó cũng là kỉ niệm xa xôi nhất trong kí ức mà người cháu còn nhớ được. Năm đó cũng là năm “đói mòn đói mỏi”. Cái đói khủng khiếp, cùng cực hiện rõ trong hình ảnh con ngựa ké xe:
“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Đó chính là năm 1945, năm nạn đói sảy ra trên toàn miền Bắc. Sau khi vừa thoát khỏi chiến tranh, nước ta lại rơi vào những khó khăn, thách thức ghê gớm: nền kinh tế kiệt quệ, thiên tai, hạn hán liên tiếp sảy ra khiến cho công việc sản xuất ngưng trệ, mất mùa liên miên. Toàn miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử. Thêm vào đó dịch bệnh bùng phát khắp nơi. Trải qua giai đoạn đen tối đó có tới hơn 2 triệu người chết.
Quả thật, may mắn cho những ai vượt qua được nạn đói ấy. Cho đến bây giờ, nhớ về thời điểm ấy, tác giả vẫn còn thấy cay cay trong đôi mắt. Cay bởi vì khói bếp. Cay vì bởi thường bà, thương dân tộc phải quần vũ trong con bỉ cực của đời người. Kí ức đau thương ấy, mùi khói quen thuộc ấy cho đến bây giờ như còn vương vấn đâu đây.
Thời gian đi qua, đủ sức để làm nhạt phai tất cả. Nhưng, những kỉ niệm bên bà nhóm lửa trong suốt tám năm rong không thể nào phai mờ trong kí ức:
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, gian truân, cực nhọc nhưng đầy tình yêu thương. Cách dẫn thời gian dài đằng đẵng gợi lên những tháng năm lầm lụi trong cuộc sống đói nghèo. Bố mẹ đi kháng chiến, tám năm cháu ở cùng bà.
Tám năm, người bà thay bố thay mẹ chăm sóc, dưỡng nuôi và bảo vệ người cháu trước bao hiểm nguy, trắc trở. Chính bà là người đã dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.
Từng ngày, từng ngày bếp lửa lại được nhóm lên cùng những bài học, những câu chuyện cùng lời nhắc nhở ân cần của bà. Bếp lửa như là dấu hiệu để mở đầu cho mọi hoạt động, dẫn dắt con người đi vào cuộc sống. Mỗi sớm bếp lửa cháy lên mở đầu ngày mới. Mỗi chiều bếp lửa lại cháy lên để khép lại một ngày và mở ra một miền sáng mới ấm áp và thân thương của sự đoàn tụ.
Mỗi ngày, người cháu chứng kiến bà nhóm lửa. Từ những que củi vô tri, ngọn lửa ấm cháy lên như một phép màu. tưởng như dễ dàng nhưng không phải thế. những ngày mưa gió, củi ướt rơm ẩm, nhóm được bếp lửa quả thật gian nan biết chừng nào. Thế nên người cháu mỗi lần nhóm bếp lửa mà nghĩ về biết bao khó nhọc của bà.
Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được nhắc lại đến bốn lần tạo nên một sự ám ảnh lớn.
Lần thư nhất, tiếng tu hú văng vẳng trên những cánh đồng xa, hiu hút trong sương mờ, khói xám:
“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Lần thứ hai, nó lặp lại ngay sau đó trong câu hỏi đầy mến yêu:
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?”
Lần thứ ba, tiếng tu hú thê thiết đi sâu vào nỗi buồn sâu thăm thẳm:
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Lần thứ tư trong lời tha thiết gọi mời của tác giả:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Trong không gian đồng quê tiêu điều, sơ xác, tiếng chim tu hú gợi nên một nỗi buồn bã và sợ hãi khôn cùng. trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ cũng gợi tả tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già, với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên tươi đẹp, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, buồn thương và tiếc nuối.
Trong tâm lí con người, con chim tu hú luôn mang đến cho con người những điều không may mắn. Nó là đại diện của những gì xấu xa, ma quái, đầy chết chóc. Tiếng kêu u uất, đứt quãng, sầu bi của loài chim giấu mặt này luôn khiến cho người ta bất an, lo lắng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong.
Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà. Có lẽ, lúc ấy tác giả không hề biết điều đó, lắng nghe âm thanh tiếng chim như dấu hiệu duy nhất với niềm tin vào sự đồng cảm trong sự sống đầy khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng tình và không bao giờ phản bội con người.
Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
Những năm tháng thơ mộng và bình yên ấy mau chóng đi qua, đọng lại trong nhà thơ là miền kí ức đau thương của quê hương, làng xóm:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con người; hòng phá tan ước vọng hòa bình và muốn khất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Nhưng không, họ đã không chết, họ đã không đầu hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên ” dựng lại túp lều tranh” làm lại từ đầu từ đóng tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng vào cách mạnh, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững vàng hơn:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng tô đậm thêm đức tính hi sinh của ba. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.
Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:
“Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Không biết điều gì đang sảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương, tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điêu đứng nhất. bà đinh ninh dăn dò, lời dặn dò chắc nịch như nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn hướng về tiền tuyến.
Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bồng con đánh giặc năm nào:
“Mẹ là nước chứa chan,
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan”.
(Huyền thoại me – Trịnh Công Sơn)
Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra, cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế, chăm nom và dạy bảo.
Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đốt làng, tất cả bị hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, Bà chấp nhận hi sinh tất cả những gì mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bếp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.
Đến đây, ý thơ bỗng giãn ra, miên man trong kí ức tuổi thơ tươi đẹp bên cạnh bà và bếp lửa. Giờ đây, bếp lửa và bà tuy hai mà một đã hòa quyện vào nhau thành nguồn sống mạnh mẽ, bất diệt
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… “
Hình ảnh người bà chắt chiu ngọn lửa ấm một lần nữa lặp lại. Giờ đây, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.
Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tơi muôn thế hệ mai sau.
Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng.
Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thôt lên:
“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giong bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau.
Thiêng liêng bởi vì nó gắn chặt với hình ảnh người bà đáng kính trong kí ức tuổi thơ. Nó cùng bà cháu đi qua thời gian. Nó xua tan bóng tối. Nó mang lại sự ấm no và hạnh phúc. Nó duy trì niềm tin tưởng và nguồn sống. Mặc khác trong đời sống tinh thần Việt Nam, bếp lửa gắn liền với thần lửa – vị thần bảo hộ của cuộc sống gia đình vốn rất được con người kính trọng và tôn vinh.
Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cúa bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cõi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên”
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếpluwarB, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ.
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau, tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ, từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.
Bếp lửa còn là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng, là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc, đọng lại trong ta biết bao cảm phục. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.