LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về bài thơ của Lê Hữu Trác trong đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh"

3 trả lời
Hỏi chi tiết
4.907
6
4
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
04/06/2017 21:47:50
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.

Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:

“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"

Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.

Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.

Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.

Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.

Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
0
Lê Thị Thảo Nguyên
05/06/2017 07:52:42
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo "Thượng kinh ký sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.

"Thượng kinh ký sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn "Vào Trịnh phủ ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.

Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kỹ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp "đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương

Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp", người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, "truyền báo rộn ràng”.

Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:

“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen...”

Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!

Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá "kì lạ”. Nhà "Đại Đường” còn gọi là "Quyển Hồng”. Là cái tầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “ phòng Chè".

Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hóa nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn, cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang "khác hẳn mgười thường”.

Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đô nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.

Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt". Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây”

Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn”, nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ’’.Ông thầy thuốc mà danh tiếng "như sấm động ” đã suy nghĩ và nói: “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.

Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê- Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ “ cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả ‘‘Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống.

Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì "ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:

“Quê mùa cung cấm chưa quen ,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”

Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sâm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bảng công danh: "Cũng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.

Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5, 6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!

Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xong quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. "Lưng khôn uốn, lộc nên từ” là thế.

Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cúi lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:

“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tê sắc. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên... ”

Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu "Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.

Đoạn văn “Vào Trịnh phủ” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê - Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.

Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.

Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.

“Vào Trịnh phủ ”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
2
1
Trần Thị Huyền Trang
05/06/2017 08:42:01
Không chỉ là một danh y lỗi lạc của đất nước thế kỉ XVIII và mãi mãi muôn đời sau, Lê Hữu Trác còn là một thi nhân, một văn nhân tài ba của nền văn học Việt Nam đến tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông, thế kí văn học nước nhà mới thực sự ra đời. Thượng kinh ki sự là một tác phẩm kí độc đáo, mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ta có thể cảm nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.

Lê Hữu Trác sinh năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là cuộc đời ông nằm trọn trong thời kì lịch sử nhiều biến động thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà: thời kì các tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh tranh giành quyền lực, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ dữ dội,… Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng khiến bức tranh lịch sử vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.

Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trinh – chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa mặc mà mắc phải. Sự thực ấy đặt vào hoàn cảnh dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến lên kinh – một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ông đã viết Thượng kinh kí sự ghi lại những điều tai nghe mắt thấy và những suy nghĩ cảm xúc của mình nơi sang nhất trời Nam.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa. Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc.

Cảnh vật phủ chúa là điều đầu tiên tác giả cảm nhận được. Nó là dấu hiệu đầu tiên đánh dấu sự khác biệt nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp đẽ, xinh xắn, lộng lẫy làm sao! “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nhưng đó không phải thứ cây cối hoang dại bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ,… Đó đều là giống cỏ lạ chim quý “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, tất thảy đều “thật là xinh đẹp”. Chưa hết. Thành quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu “Mấy lần cửa” tiếp nhau, “những dây hành lang quanh co nối tiếp”. Nó tạo nên những phủ chúa cao rộng, lộng lẫy, nguy nga “cái nhà lớn thật là cao và rộng”, “sập sơn son thếp vàng. Cảnh vật ấy khiến tác giả không cầm lòng được phải ngợi ca:

Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu hiên ngọc, bóng mai ánh vào 
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Đây thực là nơi “Cả trời Nam sang nhất là đây”!

Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là kẻ xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi lại cũng nhiều, “sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết”; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.

Còn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã có lần ngậm ngùi “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chôn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Như vậy hỏi sao chốn đây không thơm lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, bên cạnh vẻ đẹp của chốn non Bồng nước Nhược, nó còn phản ánh một sự thực là lòng tham vô đáy, sự ích kỉ hẹp hòi của phường quan chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực đất nước khi đó được phản ánh thật đau lòng. Nhân dân phải “chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm”, nhiều nơi "ruộng đất hầu thành rừng rậm”. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh “Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn”. Thậm chí, có bậc nho sinh trên đường đi ghé vào một hàng cơm, khi ăn thì thấy “trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt (…) thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người…”. Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình yên như thế, có ai lắng nghe thấy tiếng khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?

Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, kiểu cách, xa hoa, bệnh hoạn của họ.

Không phải vô tình Lê Hữu Trác tả kĩ mọi sự việc mắt thấy tai nghe đến thế. Phải trách những sự ấy quá lạ lẫm, đặc biệt, nó khác với lẽ thường vốn có.

Tác phong làm việc của họ thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa, họ “gõ cửa rất gấp” “vừa nói vừa thở hổn hển” vào “buổi sáng tinh mơ”. Thời gian ấy, cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc đến cách vội vã khi đi đường của họ “cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm sao?!

Nhưng thật bất ngờ! Vào đến phủ chúa, ta không khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân (gọi, “mời” thầy thuốc vội vã đến thế kia mà?) nhưng không, vội và, “hổn hển” là ai kia, là lũ lính hầu, bọn “đầy tớ” “giữ cửa”, “vệ sĩ”,… chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải Thượng Lãn Ông phải “đi qua mấy lần cửa”, qua “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”, rồi lại “qua mấy lần cửa” (có lẽ vì nhiều cửa quá không thê nhớ hết, đếm hết), đến điếm “Hậu mà quân túc trực”, tiếp tục “đến một cái cửa lớn” “qua dãy hành lang phía tây đến một cái nhà lớn thật cao và rộng”, lại “qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng”,… Theo bước chân Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi vào một mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn kiểu cách đến mức đặt tên cho mỗi nơi, mỗi chốn: nhà “Đại đường”, nhà “Quyển bồng”, “Gác tía”, riêng vì kiêng chữ “thuốc” nên Gác tía còn được gọi là “phòng trà”. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn chưa được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa quá, có lè vì vậy mà tiếng khóc muôn dân không vang tới, nó chặn kín con đường họ Trịnh về với cái Nhân, cái Thiện của con người. Đến “phòng trà” mới biết còn “bảy, tám người” ngự y cũng đang túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vô cùng. Chỉ vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc “quèn” phải dậy từ tinh mơ, “chịu xóc một mẻ, khổ không nói hết”, phải đi bộ qua quãng đường lê thê những lính canh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hàng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây. Trong khi ấy dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường khó khăn, dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi ấy có “Thánh thượng” cùng các phi tần đang ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô cùng “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó để chốn dân gian người chết đói vô cùng!

Sau bao nhiêu chờ đợi, cuối cùng người đọc cũng được tiếp kiến mặt rồng.

Bên ngoài khung cảnh xinh đẹp rộn rã là thế nhưng nơi vua nằm chúa ở lại “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Không gian ấy giống như một cái hang, ẩn chứa nhiều khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ đây ánh mặt trời không chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống cho muôn loài nhưng rõ ràng kẻ trong này không được thần Dương ban ánh sáng, không được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều đó được chứng minh ngay bởi dáng vẻ thân hình của thế tử “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi (…) tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò”. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc gầy gò ốm yếu đã đành, nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức.

Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lè Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào hoàn cảnh lịch sử ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này chính là nguyên nhân gây nên mọi tai vạ đau thương cho đất nước.

Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh ki sự đà chứng minh bản thân ông không chỉ là một người thầy thuốc có tài mà còn là một ngòi bút có tâm, có tấm lòng nhân ái, vì dân mà trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài vào lịch sử văn học nước nhà.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư