Nguyễn Du – nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu, là người tình chung thủy, là người trọn nhân nghĩa và giàu đức hi sinh. Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vần cố gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn tỏa sáng.
Trước hết, Kiều là một người con hiếu thảo. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh: Rường cao rứt ngược dẩy oan, Dẫu là đá cũng nát gan lọ người. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào thế cùng: Có ba trăm lạng việc này mới xong; không còn cách nào khác, Kiều đã đi đến quyết định hành động ngoài dự tính của mọi người, ngoài dự tính của chính bản thân nàng: bán mình chuộc cha. Cơ sở của hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Kiều đã gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình đầu đời trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được coi là lẽ sống của đời nàng.
Suốt mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương; lênh đênh chìm nổi: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ.
Lúc ở lầu Ngưng Bích, xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Nàng hình dung cha mẹ tựa cửa hôm mai, mỏi mòn trông đợi, mà mình thì xa xôi cách biệt, hỏi ai là người chăm sóc sớm tối?
Đến lúc buộc phải chấp nhận làm kĩ nữ ở lầu xanh, Kiều lại cùng thương cha nhớ mẹ. Nỗi nhớ ấy đã thấm đẫm trong nỗi thương thân khiến lời than thở của Kiều nghe muôn rơi nước mắt: Dặm nghìn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình, nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô nhục như vậy!
Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bồn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao!
Lúc khuyên cha, Kiều đã dùng đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của Kiều không phải chỉ là chữ hiếu phục tòng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thúy Kiều.
Bởi với Kim Trọng, Thúy Kiều là một người tình chung thủy. Tình yêu đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình; cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền gắn bó trăm năm:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia biến, cướp ngày, quan tham, bán mình… Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình, Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu…
Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lở, còn cái dở dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tinh máu mủ thay lời nước non.
Duyên có thể trao, nhưng tình lâm sao trao được ? Nó như một món nợ. Mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em ! hình dung ra cả lúc ngậm cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc hạnh phúc cho em thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình, cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:
Ôi Kim lang, hời Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì không thế.
Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập nàng đến thảm thương: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ đến mối tình đầu, nhớ tới chàng Kim. Nhớ đêm: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, nhớ lời thề son sắt nguyện ước ba sinh. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn vương:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Sau mười lăm năm, gặp lại chàng Kim, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối với Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều đã: Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì, từ chối tất cả mọi lời khuyên của chàng Kim và của gia đình.
Trước sau, Kiều vẫn chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thủy chung, đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời.
Trong gia đình và xã hội, Kiều đều tỏ ra là người trọng nhân, trọng nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp bức đọa đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cùng không ít, Kiều đều khắc cốt, ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn oán.
Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, Giác Duyên… đều dược nàng đền ơn rất hậu và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng:
Ngàn vàng gợi chút lễ thường,
Mà tòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!
Việc báo ân của Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói: ơn ai một chút chẳng quên, Oán ai một chút ghi bên dạ này. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà… đều phải chịu cảnh Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời, đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời : Cho hay muôn sự tại trời, Kẻ gieo gió ắt phải gặt bão. Kẻ gây ra tội ác ắt phải đền tội giữa thanh thiện bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí cuộc đời.
Sau khi báo ân báo oán, mọi cơ cực, oán trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan tòa. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo lo thay, như một định mệnh đã ghi trong số đoạn trường, Kiều lại rời vào một tai họa khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muôn tiếp diễn cảnh Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu, không muôn Từ Hải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và bản thân nàng mong muôn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng! Nàng ân hận và chỉ còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết dế chấm dứt Cuộc đời và chuộc lại lỗi lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người. Xét kĩ, ta có thể thông cảm và tha thứ cho nàng.
Có lẽ cả Nguyễn Du lẫn người đọc không ai muốn người con gái tài sắc, đức hạnh nhường ấy phải chết trong sóng nước Tiền Dương. Cái kết thúc có hậu theo quan điểm nhân dân của tác giả đã dưa nàng trở về cõi sống, cho nàng đoàn tụ với người thân sau bao năm xa cách. Điều đó có làm giảm nhẹ đôi phần bi thương trong số phận nhân vật nhưng thật ra từ đây, Kiều tuy sống mà bóng dáng chỉ còn thấp thoáng sau màn khói sương hư ảo.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy tâm huyết của tác giả như máu chảy trên đầu ngọn bứt. Tác giả dành bao yêu thương, trân trọng, xót xa cho nhân vật chính của mình – người con gái tài hoa mà bạc mệnh.
Truyện Kiều là tiếng kêu. đứt ruột về thân phận con người – nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thúy Kiều là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khố triền miên nhưng trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giá Thúy Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có thế ví Thúy Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho hình tượng Thúy Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thúy Kiều đã để lại cho chúng ta những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Đó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.