LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận về nhan đề bài thơ Tràng Giang

4 trả lời
Hỏi chi tiết
2.782
2
0
Huyền Thu
05/02/2018 12:51:17
+ Nhan đề: tạo ấn tượng sâu sắc qua sáng tạo ngôn từ và hình ảnh.
-Tràng Giang (tràng hay trường: dài, giang: sông). Với hai âm Hán Việt và điệp vần "ang" nhan đề bài thơgợi âm điệu ngân vang, trầm hùng, lan tỏa, gợi hình ảnh một con sông không chỉ dài mà còn rộng.
- Với cách diễn đạt vừa gợi hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển vừa gợi hình ảnh dòng sông quê, gần gũi quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam.
Nhan đề đem đến hình tượng trung tâm vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa xa xôi mơ hồ vừa gần gũi quen thuộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
2
Huyền Thu
05/02/2018 12:52:16

Huy Cận là nhà thơi tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác theo từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám đối lập với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang” tiêu biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với nhiều nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.

Nhan đề chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩa, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. Mỗi nhan đề đều toát lên ý nghĩa riêng biệt làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm đó.

Một số nhan đề có tính chất gợi mở, một số nhan đề khằng định nội dung. Tuy nhiên, sáng tạo theo cách viết nào thì nó cũng bao hàm những dụng ý nghệ thuật riêng. Nhan đề của bài thơ có tên “Tràng giang” với vần “ang’ chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông Hồng rộng lớn mênh mông này. Và hình ảnh cụ thể của dòng “tràng giang” có lẽ là dòng sông Hồng. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả, đồng thời chồng chất những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới nhưng không tìm được con đường đi riêng cho chính mình. Như vậy nhan đề “Tràng giang” đã được làm sáng rõ, với ý nghĩa sâu xa như vậy.

0
0
Quỳnh Anh Đỗ
05/02/2018 16:38:26
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phầm không thể không kể đến đó là tác phầm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.
Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.  
Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, 
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và  mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gữi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hung vỹ
Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu 
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, 
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng 
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, 
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngàt của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
05/02/2018 19:48:39
Say mê sống và cũng say mê sáng tạo, Huy Cận là người đam mê thơ ca từ nhỏ. Có lẽ không chỉ vì không khí gia đình, quê hương mà căn bản vì ông mang một tâm hồn thơ nhạy cảm. Đặc biệt, như Xuân Diệu đã từng nói về Huy Cận rằng: “Huy cận đặc biệt nhạy cảm với những vùng hoang vắng trong tâm hồn”. Bài thơ “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ u buồn vẩn vơ của tuổi trẻ khi sống trong giai đoạn trước cách mạng Tháng Tám. Ngay từ nhan đề thơ đã khiến cho độc giả đắm chìm với những cảm xúc độc đáo chất chứa qua hai từ “Tràng giang”.
Nhan đề tựa như chìa khóa để mở cánh cửa. Con người ta nhìn mặt đặt tên, cũng như các nhà thơ phải mất rất nhiều thời gian để đặt một cái tên thật hàm súc cho những “ đứa con tinh thần” của mình. Như Ngô Tất Tố có tiểu thuyết “ Tắt đèn”, Nam Cao có “ Chí Phèo” thì Huy Cận có “ Tràng Giang” vậy. “ Tràng Giang” cũng chính là “ Trường Giang” có nghĩa là sông dài. Chẳng phải vô tình, mà Huy Cận đã cố tình sử dụng âm “ ang” trong từ “ tràng” tựa như kéo dài hình ảnh con sông. Sông Hồng là con con sông dài rộng bậc nhất Việt Nam, nó uốn quanh bao trọn lãnh thổ Một âm hưởng vang lên rộng lớn trên khoảng không gian dài rộng, hùng vĩ của con sông kia. Nhan đề ấy không chỉ để diễn tả lại vẻ rộng lớn của con sông Hồng, nó còn bao quát, ôm trọn tâm hồn con người. Nơi đây đang có một thi nhân luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng với đất trời, con người. Sông càng dài, nước càng mênh mang, cũng như đời sống càng lâu, con người ta càng dễ cảm thấy cô đơn. Những bế tắc chồng chất không lối thoát, những mộng tưởng hoài bão của con người trước cách mạng khi chưa thể tìm thấy lối đi đúng đắn, chưa được Đảng dẫn bước soi sáng.
Nhan đề “ Tràng Giang” đã thay bao lời muốn nói của tác giả về cuộc đời của mình. Nỗi buồn của Huy Cân lan tỏa cùng dòng sông, cùng cảnh vật. Tựa như đang muốn tìm một nơi để gửi gắm cho hết mọi suy nghĩ, tâm tư.
Bàn về lời đề, bìa bài thơ “ Tràng Giang” có lời đề ” Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Không phải tác phẩm nào cũng có những lời đề như vậy. Lời đề tựa như một chiếc chìa khóa phụ, song hành cùng với nhan đề để giúp độc giả từng chút khám phá nội dung của tác phẩm. Khi nhan đề chỉ ngắn tựa đôi chữ không thể lột tả được hết dụng ý của tác giả, thì nhà thơ mượn lời đề “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” để tiếp tục cung cấp cho người đọc hai tư liệu chính: trời rộng và sông dài nhằm định hướng cho người đọc có thể mường tượng được những hình ảnh chủ đạo của bài thơ. Điều này cũng được kết tinh trong hai câu thơ chính trong bài Tràng Giang:
“ Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
“ Là Tràng giang khổ nào cũng dập dềnh sống nước, là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu”. Nỗi lòng của Huy Cận cũng trải dài khắp các dòng thơ tựa như nhan đề vậy. Huy Cận muốn mở ra một không gian rộng lớn, mênh mang từ dòng sông sang cả lòng người. “ Dòng sông uốn khúc, lòng người có lúc”, đứng trước dòng sông Hồng hùng vĩ cùng biết bao ngã rẽ con đường phía trước, biết rồi ngày mai sẽ đi đâu về đâu. Nhan đề “ Tràng giang” hàm chứa biết bao ý nghĩa, tâm tư của tâm hồn Huy Cận sẽ còn mãi có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới người đọc qua biết bao thế hệ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư