DÀN Ý
1. Mở bài:
- Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán, được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kir XVIII, khi xã hội phong kiến nước ta đang lâm vào tinh trạng rối ren, khồng hoảng. Nội chiến xảy ra liên miên. Nông dân nổi dậy khắp nơ chống lại triều đình. Cảnh sinh li tử biệt, đau thương tang tóc xảy ra hằng ngày...
- Chinh phụ ngâm của Đặng Trần cỏn ra đời đã nhận được sự đổng cảm rộng rả của táng lớp Nho sĩ. Nhiều người dịch tác phầm sang chữ Nôm. Bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là thành công hơn cả.
- Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ căm ghét, lên án chiến tranh phi nghĩa, đề cao quyển sống cùng khát vọng hạnh phúc của con người. Đoạn trích Tình cảnh lổ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 228 miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong tâm trạng người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
2. Thản bài:
* Bố cục đoạn trích gồm ba đoạn nhỏ:
- Đoạn 1 : Từ đầu... đến phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phu trong tinh cảnh lẻ loi...
- Đoạn 2: Tiếp theo... đến chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa.
- Đoạn 3: Còn lại: Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
* Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tinh cảnh lẻ loi:
- Khắc khoải mong chờ: Dạo hiên vẳng thầm gieo từng bước; bốn chồn sốt ruột: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
- Lúc nào và ở đâu nàng cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng khuê... Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.
- Khát khao được đồng cảm: Người chinh phụ trách chim thước chẳng chịu mách tin. Lúc đầu, nàng nghĩ may ra chỉ có ngọn dèn biết tâm sự của minh, sau lại nghĩ đèn có biết thì cũng bằng không. Nỗi sầu thương không được san sè nên lòng nàng càng bi thiết.
- Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng đã cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.
- Từ câu 9 đến câu 12 : Đêm khuya, nghe tiếng gà gáy báo tửng trống canh, người chinh phụ không sao ngủ được. Ban ngày, nhìn bóng hoè hết dời bên này tại chuyển bên nọ, người chinh phụ thấy thời gian chờ đợi dài vô cùng. Những từ láy đằng đẳng, dằng dặc có sức gợi tả gợi cảm rất lớn.
- Từ câu 13 đến 16: Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi. Khi đốt hương thì nàng lại chìm đắm vào sáu tủi miên man; lúc soi gương thì lại nhớ gương này mình với chổng dã soi chung, nên không cầm được nước mắt. Nàng gượng gảy đàn thì lại sợ dày uyên đứt, phím loan chủng... Nàng đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất chứa trong lòng.
* Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa.
- Người chinh phụ nghĩ đến chồng mình đang xông pha nơi chiến trận ở phương xa, chợt nảy ra ý nghĩ: nhờ gió 'xuân gửi lòng mình tới chồng:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
- Câu thơ thể hiện nỗi nhớ mênh mông, vô tận. Thâm thảm nỗi nhớ chổng mà cũng là thăm thẳm con đường đến chỗ chổng đang đánh giặc, thăm thẳm con đường lên trời. Đất trời thi bao la, bát ngát, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn hơn tủ biệt đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng?
- Giữa cảnh vật và con người dường như có sự tương đổng khiến cho mối sâu thương càng trở nên miên man, bất tận : Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun... Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình nhằm thể hiện rõ tinh cảnh vả tâm trạng lẻ loi cúa người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì... nàng cũng chì lầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!
- Trời đất không cùng, nỗi nhớ cũng không cùng ; người chinh phụ đành trở lại
với thực tố xung quanh. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Không gian âm u: Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun, như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tầm hơn người chinh phụ cô đơn:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Tuy nhiên, đến câu Sâu tường kêu vầng chuông chùa nện khơi, không khí đã thấy dễ chịu hơn. Cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thấy thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
• Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
- Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tinh đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm. Chữ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. cảnh hoa - nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lửa đôi:
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lổng hoa, hoa thâm từng bông.
■ Điệp từ hoa, nguyệt, các động từ dãi, lồng ngầm diễn đạt ý lứa đỗi quấn quýt, gán gũi; âu yếm nồng nàn mà vẫn kín đáo, tế nhị.
• Đặc điểm nghệ thuật:
- Tác giả chọn và dùng từ rất đắt: Dạo hiên vắng thấm gieo từng bước, Sương như búa, bồ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xò hẻo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên,... Đặc biệt, tác giả đã khai thác và sử dụng hàng loạt từ láy: gà eo óc, hòe phất phơ, khắc giở đằng đẵng, mối sầu dằng dặc, hồn mê mải, lệ châu chan, trời thâm thẳm, nhở đau đầu,... về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tinh nhạc điệu trám bổng, du dương của thể song thất lục bát giống như những đợt sóng dào dại diễn tả tám trạng người chinh phụ hốt nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.
3. Kết bài:
- Bàng nghệ thuật tả cành tả tinh điêu luyện, tác giả dã diễn tả thành công những cung bậc cảm xúc khác nhau trong lòng người chinh phụ và thông qua đó lẽn án chiến tranh phi nghĩa, để cao hạnh phúc lứa đôi...
- Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lẻn tư tưởng chủ đạo trong ván chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trẩn Côn sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lô - Mạc đánh nhau đến Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất binh nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nối da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chổng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chát tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đổng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm nảy sang chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là hoàn hảo hơn cả bở; nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là để cao quyền sống cùng khát vọng tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chổng ra trận với mong muốn chổng minh sẽ lập được công danh và trở vể cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng phải sống trong tinh cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chổng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tự hạnh phúc ngày càng trỗ nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của tâm trạng cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ trẻ đang khao khát được sống trong tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:
Đoạn một (từ câu 1 đến câu 16): Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.
Đoạn hai (từ câu 17 đến câu 28): Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa; cảnh ảm đạm khiến lòng chinh phụ càng thêm sầu thảm.
Đoạn 3 (từ câu 29 đến hết): Khung cảnh thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chổng. Một lẩn nữa, nàng ti/ hỏi vỉ sao đôi lúa uyên ương lại phải chia lia ? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời đáp. Tâm trạng bân khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật'miêu tả tấm lí tinh tế. Có thể nói, sáu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.
Trong phẩn đẩu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ dã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ nét:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khả thương!
Nàng lăng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn dang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như troi gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieó vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bổn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.
Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ẳng, chỉ có ngọn đèn đổi diện với năng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, náng chợt liên tưởng đến (ình cảnh của minh và trong lỏng rưng rưng nỗi thường thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.
Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám cảu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng lạnh... Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.
Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khấc giờ đàng đảng như niên,
Mối sầu dàng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Những cây hoè phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bà, u sầu. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!
ở các khổ thơ tiếp theo, nổi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng cảu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu bơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tinh cành lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thi hổn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng so/ thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chổng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chổng đang chia Ra đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành : Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng minh vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tinh nghĩa vợ chổng. Nay vợ chổng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia lìa đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gũi đốn non Yên.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chần thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng minh tới người chồng ở chiến trường xa, dang đối đẩu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hẩu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vò biên: Nhớ chàng thảm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhổ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con dường lên tròi. Câu thơ hàm súc vể mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:
Trời thăm thẳm xa vài khôn thấu,
Nỗi nhở chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh //đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cày sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đổng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm hổn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt
sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tinh này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trưởng trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rổi lại từ cảnh trở về tinh, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hiện rõ tinh cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì... nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một minh một bóng mà thôi!
Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thi không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tính đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá' màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thám từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tinh, cử dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gì... người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!
Từ thốc rất mạnh trong càu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hể- chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lửa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.
Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ láy làm nổi bật tinh chất của sự vật : eo óc, phất phơ, đàng đàng, dàng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu... về nhạc điệu, tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng... trong tinh cảnh lẻ loi đơn chiếc.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tinh được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chổng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyển lực của vua chúa, tác giả có chủ ý để cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất binh, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngẫm đã toát lên tư tưởng chủ dạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyến dược hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.