Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và cho biết tác giả đã làm thế nào để lột tả bộ mặt của giặc?

2 trả lời
Hỏi chi tiết
2.045
2
1
Phùng Việt Hoàng
23/02/2017 23:02:03
- Bộ mặt của giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tế: Đi lại ngheeng ngang, sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn...
- để lột tả sự ngang ngược và tội ác tham tàn của giặcđông thời bày tỏ thái độ căm thù,khing bỉ của ông trần quốc tuấn  đã dùng phương pháp ẩn dụ:
​- Lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,...
-> tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng căm thù giặc sâu sắc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
2
Thiênn Dii
24/02/2017 13:02:35
Ngay sau khi nêu gương các anh hùng nghĩa sĩ đã xả thân vì đất nước trong những thời kì loạn lạc, tác giả đã viết những lời hết sức tâm huyết kể tội ác của giặc. Bằng cái nhìn sáng suốt, sâu rộng và cảnh giác của vị Tiết chế thống lĩnh, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần tà tâm và bộ mặt tham lam, tàn bạo của quân xâm lược phương Bắc qua hình ảnh của những tên sứ giặc.

Đoạn văn nói về nỗi lòng, tâm trạng của Trần Quốc Tuấn trước tội ác của giặc được đánh giá là đoạn đặc sắc, hay nhất của bài hịch. Tác giả đã sử dụng những lời văn hết sức thống thiết, cách nói thậm xưng để diễn tả nỗi đau, sự uất hận của một vị tướng lĩnh phải chứng kiến cảnh quốc thế bị sỉ nhục, nhân dân bị chà đạp. Nỗi đau ấy luôn thường trực, kéo dài dằng dặc theo dòng chảy thời gian (ngày, nửa đêm...) thấu vào tận xương tủy: “như dao cắt, nước mắt đầm đìa”. Càng đau xót càng uất hận, căm thù lên đến tột đỉnh biến thành mong muốn mạnh mẽ: “xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”. Tác giả đã sử dụng cách nói cụ thế đầy ấn tượng để biểu thị một thái độ kiên quyết không dung tha lũ giặc cướp nước. Câu văn chia thành nhiều vế đối nhau tạo cho giọng văn sự đanh thép, hùng hồn, mạnh mẽ.

Tác giả cũng chỉ ra một sự thật dù phũ phàng song rất hiển nhiên, tất yếu: Tiền không mua được đầu giặc, chó săn không đuổi được quân thù, rượu ngon không thế làm cho giặc say chết... Và người phải chịu hậu quả đau xót không chi là triều đình, là tướng lĩnh mà chính là bản thân người lính và những người thân yêu của họ. Tác giả vẽ ra viễn cảnh hết sức bi thương sẽ xảv ra với những điều thiêng liêng, tôn kính nhất của mỗi con người: gia quyến bị tan, phần mộ cha mẹ bị quật lên, tiếng dơ khôn rửa... Còn gì đau xót hơn?

Tác giả là một vị thống lĩnh, lại trong một văn bản chính luận, không thể tránh khỏi nhừng lời lẽ khẳng khái, nghiêm khắc phê phán khi nói về thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của nhiều tướng sĩ trước vận mệnh đất nước “không biết lo, mà không biết thẹn, không biết tức...”. Nhiều lúc sắc thái đó còn được tăng lên thành nhừng lời khẳng định một chân lí duy nhất, không thể khác: “Nếu các ngươi... thì mới phải; nhược bằng khinh bỏ... tức là kẻ nghịch thù”. Đối với Trần Quốc Tuấn, đó cũng là tư tưởng chung của hệ ý thức phong kiến “ái quốc”, thống nhất với “trung quân”. Thiết nghĩ trung thành với một triều đại thân dân, có những vị tướng kiệt xuất, hết lòng vì giang sơn xã tắc thì cũng là thuận ý trời, hợp lòng dân. Như vậy, lời lẽ và thái độ của Trần Quốc Tuấn cũng là hết sức hợp lí. Nhưng có nhiều khi muốn bày tỏ sự ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ: “Các ngươi ở cùng ta...”, “lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị đau xót biết chừng nào...”, “chẳng những... mà”. Đặc biệt là đoạn văn miêu tả tâm trạng xót xa, uất hận đến tột cùng của vị thống lĩnh đã tạo cho bài hịch có sắc thái chân tình, gần gũi, thắm thiết.    

Đế diễn đạt nội dung vừa có tính thuyết phục, vừa có tính cách phê phán, tác giả đã lập luận rất chặt chẽ như chúng ta đã thấy ở phần kết cấu và bố cục — lời lẽ có tình, có lí, khi thì thiết tha, khi thì đanh thép, chuyển từ đầu đến cuối một cách lô-gíc.  Đế phân rõ lẽ phải trái, đường chính tà, tác giả đi từ xa đến gần, từ vấn đề chung đến vấn đề cụ thể trước mắt. Mở đầu, tác giả dẫn chứng trong sử sách đời xưa đế nói khả năng của tướng sĩ đời nay, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tác giả chuyến xuống phân tích nỗi giặc tàn ác như thê nào, nỗi mình thâm giao như thế nào, tiếp đó tác giả vạch ra hai viễn cảnh trái ngược, rồi kết thúc bằng lời kêu gọi đanh thép; hoặc theo ta, hoặc theo giặc, hoặc là bạn, hoặc là thù, hoặc là danh thơm muôn thuở, hoặc là tên xấu nghìn thu. Phương pháp tương phản, đi đôi với lối văn biền ngẫu trong bài này thật là “đắc dụng”. Ở đây chẳng những ý từng đoạn đối nhau, mà ý từng câu đối nhau, từng chữ đối nhau. Chúng ta đọc đến đâu là lẽ phải, trái nối bật đến đấy: “Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quản giặc mà không biết tức. Nghe nhạc Thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm”... Rõ ràng chữ đạp nhau, đối nhau chan chát, ai là người không nhận rõ lẽ chính tà? Tác giả lại biết phối hợp phương pháp điệp ngữ, điệp ý để làm tăng thêm tính thiết tha, tính bi tráng của câu văn. Để đập vào tư tưởng an hưởng thái bình trong tướng sĩ lúc đó, tác giả viết: hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc... hoặc... Tác giả nêu lên hình tượng cựa gà trống bên áo giáp, mẹo cờ bạc bên quân mưu. Sự vật có vẻ hài hước, nhưng ý nghĩa thật nghiêm trang. Bằng phương pháp tương phản kết hợp với phương pháp so sánh.

Đế làm tăng thêm tính quan trọng của vấn đề, tác giả nhắc lại ý nghĩa đối với quần chúng nhân dân lúc bấy giờ và sự thanh nghị của người đời sau trong sử sách. Sau đó, tác giả đặt một mệnh đề nghi vấn nhưng lại rất khẳng định: Trong cảnh u ám “Lúc bấy giờ, dẫu các người muốn vui chơi phỏng có được không?” Trong cảnh huy hoàng: “Lúc bấy giờ, dẫu các người không muốn vui chơi phỏng có dược không?”. Đây là một đoạn văn hùng biện tài tình, khích lệ cao độ lòng căm thù, chí phấn đâu. Đặc điểm bài văn này còn ở chỗ tác giả biết cấu tạo hình tượng sinh động, sử dụng lời văn thích đáng. Để nêu những gương hi sinh trong sử sách, tác giả đã nêu những hình tượng “đem mình chết thay”, “chìa lưng chịu giáo”, “nuốt than”, “chặt tay” v.v... Đối với giặc, tác giả dùng những hình tượng “uốn lưỡi .

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư