LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Vẻ đẹp nhân cách của Phạm Ngũ Lão qua bài thơ "Tỏ lòng"

5 trả lời
Hỏi chi tiết
23.009
59
9
Nguyễn Nhật Thúy ...
04/12/2017 21:10:18
- Vẻ đẹp hiên ngang, hùng dũng của người anh hùng, không chỉ có vẻ đẹp ý chí mà còn có cái "tâm" đẹp.
- Ngoài ra, bài thơ cũng như một lời nhắc nhở đối với bậc nam nhi sống trong thời đại phải có ý thức cầu tiến, xả thân vì nghĩa lớn.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
49
23
Nghiêm Xuân Hậu ( ...
04/12/2017 21:11:02
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Phạm Ngũ Lão là tướng đời Trần, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông “đánh đâu thắng đấy”. Ông lo việc binh, đồng thời “lại thích đọc sách, ngâm thơ” . Cũng như nhiều danh tướng đời Trần, Phạm Ngũ Lão vừa cầm quân đánh giặc, vừa viết những áng văn thơ để lại muôn đời. Trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Thuật hoài. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng cao cả của người trai đời Trần.
Cũng như Cảm hoài. Ngôn hoài; Thuật hoài là một loại thơ trữ tình “ngôn chí” khá phổ biến trong thơ ca thời trung đại, để bày tỏ những ý nghĩ, những tình cảm lớn của tác giả (Thuật hoài có nghĩa là Tỏ lòng). Đến nay, chúng ta chưa nắm được đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Tuy nhiên, dựa vào nội dung của tác phẩm có thể khẳng định bài thơ này ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần, khi lực lượng của nước Đại Việt đã lớn mạnh nhưng trong chiến đấu chống giặc Nguyên 1 Mông chưa đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch là:
Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Trong nguyên bản, hai câu này là:
Hoành sóc giang san cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
“Hoành sóc” được dịch thành “múa giáo” dễ làm cho người đọc hiểu không hoàn toàn đúng. “Hoành sóc” tức là cầm ngang ngọn giáo, cả câu có nghĩa là “cắp ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu”. Chỉ cần 7 chữ nhưng câu thơ trên đây đã gợi được hình ảnh của người trai đời Trần và cũng chính là của Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng dũng, luôn kiên cường, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lập nên những chiến công huy hoàng. Dẫu họ đã ngoan cường chiến đấu bao năm tháng (“trải mấy thâu” là mấy mùa thu rồi) nhưng vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang bất khuất.. Hình ảnh người tráng sĩ càng trở nên chói lọi bởi hùng khí của ba quân. Ba quân chính là hình ảnh của cả thế hệ Phạm Ngũ Lão, của cả dân tộc đang sống trong hào khí Đông A. Sức mạnh của “ba quân” được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át sao Ngưu. (Còn một cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa: sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi được cả trâu). Như vậy, câu thứ nhất nói về cá nhân người trai đời Trần; câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đổng. Cá nhân có vẻ đẹp hiên ngang của đất trời, sông núi, vượt qua mọi thử thách của thời gian, cộng đồng, dân tộc, có tầm vóc và sức mạnh của vũ trụ. Cá nhân với cộng đồng, với dân tộc có quan hệ mật thiết, hài hoà. Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng tạo nên khí thế ngất trời của ba quân; đồng thời khí thế của ba quân lại làm cho hình ảnh người tráng sĩ thêm lộng lẫy. Mỗi con người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp!
Ấn tượng về hình ảnh người trai thời Trần trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão
Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã phác hoạ thành công tư thế của nhân vật trữ tình 1 chàng trai đời Trấn và tư thế của dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với một tầm vóc lớn và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp sử thi, tẩm vóc sử thi. Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mình mà ông còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại.  
!--> Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình ảnh ba quân khí thế ngất trời ta đã gặp nhiều trong văn học trung đại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. (Chàng chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng từng “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo”. Nói về tướng sĩ trong bài Thập giói cô hòn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông cũng có câu “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn”). Song, nếu ở những câu vừa dẫn là những hình ảnh ước lệ nặng tính chất ngao du khoa trương, thì trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là những hình ảnh tuy cũng thật kì vĩ nhưng là những hình ảnh chân thực, hiện thực, bởi người đọc biết rằng chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã nhất tể thể hiện tinh thần ấy. Và mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) vào cánh tay.
Tiếp nối một cách tự nhiên mạch cảm xúc ở hai câu đầu, hai câu sau thể hiện khát vọng lập được nhiều chiến công to lớn vì đất nước của vị tướng – thi sĩ :
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Người trai đời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn cao đẹp bởi có một. quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Có công thì mới được ghi danh (têii). Mỗi con người chân chính, đặc biệt đối với những người làm trai, niềm khao khát làm nên sự nghiệp, lưu lại tên tuổi mình cho hậu thế là niềm khao khát chính đáng. Đây chính là động lực to lớn để không ít người có sức mạnh vượt, qua những thử thách cam go lập nên những kì tích vang dội, thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội. Chính vì the mà sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Làm trai sống ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Và không hiểu tự thuở nào ông cha ta vẫn thường khích lệ cháu con: “Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan”. Đây chắc chắn không phải là thói hátn danh phàm tục, trái lại là một quan niệm nhân sinh tiến bộ trong truyền thống dân tộc.
Ở đây, cái hay không chỉ ở nội dung toát ra từ câu thơ của Phạm Ngũ Lão mà còn ở chính con người tác giả. Ta đều biết, viên tướng làng Phù ủng này là người “công danh” lừng lẫy đánh đông dẹp bắc, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, cho đến khi tuổi đã cao ông vẫn còn hăng hái cầm quân đánh tan bọn xâm lược quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc, và được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302), được ban tước Quan nội hầu (1318). Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn “vương nợ” với đời, còn phải “thẹn” khi nghe chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng 1 một nhân vật siêu việt, có công lớn giúp Lưu Bị thời Tam quốc chia ba thiên hạ. Điều này đủ biết khát vọng và nhân cách của tác giả cao cả biết nhường nào? Phải chăng, chính vì ý thức được món nợ chưa trả xong đối với dân tộc, đối với đất nước, chính vì biết “thẹn” trước những nhân vật lẫy lừng trong sử sách đã tạo nên tầm vóc tuyệt vời của nhà thơ – chàng trai đời Trần, người anh hùng Phạm Ngũ Lão với những chiến tích vang dội và với bài Thuật hoài bất hủ này.
Ra đời cách chúng ta đã 7 thế kỉ, song bài Thuật hoài luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn, lay động con tim của bao thế hệ người đọc. Bởi vì, qua bài thơ, độc giả bắt gặp hình ảnh vừa chân thực vừa hoành tráng của người trai thời Trẩn với vẻ đẹp thật là hùng vĩ cao cả.
17
11
Vua Hai Tac
04/12/2017 21:11:20
Cái chí làm trai của tác giả là :
+ Lập công ( để lại sự nghiệp cho đời), lập danh ( để lại tiếng thơm )-> quan niệm lập công trở thành lý tưởng của người làm trai thời phong kiến.
+ Công danh được coi là món nợ của người làm trai với đất nước ( trả xong nợ công danh là hòan thành nghĩa vụ với đất nước)
* Chí làm trai cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Cho nên , chí làm trai có nội dung tích cực và có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, khích lệ tinh thần yêu nước cho mọi thế hệ.

Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời). Chí làm trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Đó là lí tưởng sống tích cực, tiến bộ " Sự nghiệp công danh của cá nhân thống nhất với sự nghiệp chung của đất nước- sự nghiệp chống giặc ngoại xâm cứu dân, cứu nước, lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích của cộng đồng.
" Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão có tác dụng cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân để “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.
- Vũ Hầu- Khổng Minh Gia Cát Lượng- bậc kì tài, vị đại quân sư nổi tiếng tài đức, bậc trung thần của Lưu Bị thời Tam Quốc.
- Thẹn" hổ thẹn" Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước.
Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ (lấy giá trị xưa làm chuẩn mực), thêm nữa từ sự thật về Khổng Minh" Nỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển nhiên.
“thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn của người có nhân cách. Trong bài Thuật hoài,Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Vì từ một chàng trai thôn dã bình th­ường ở làng Phù ủng ông đã trở thành một vị t­ướng tài, tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 2, lần 3, nổi tiếng là ngư­ời đánh đâu thắng đấy. Cho tới khi 63 tuổi ông vẫn hăng hái xung phong cầm quân, dẹp tan bọn xâm l­ợc quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc. Được phong chức : “Điện súy thượng tướng quân”
Cho nên Thẹn với Vũ hầu không phải là so sánh mình với Vũ hầu mà là soi vào tấm g­ơng ấy để nỗ lực phấn đấu, khát khao có đ­ợc tài m­u l­ợc giúp nhà Trần trừ giặc, cứu n­ớc.
Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.
" Hoài bão lớn: ước muốn trở thành người có tài cao, chí lớn, đắc lực trong việc giúp vua, giúp nước.. Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.
" Đó là nỗi thẹn tôn lên vẻ đẹp tâm hồn tác giả, thể hiện cái tâm vì nước, vì dân cao đẹp.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại. Điều đó rất phù hợp với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ. Nói cách khác âm hưởng thơ góp phần thể hiện nỗi lòng của Phạm Ngũ lão
Với tinh thần ấy, nhân dân ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, v.v... và nhất là Bạch Đằng”
* Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Đó chính là Trần Quốc Toản mới 16 tuổi (cùng triều đại): đã gi­ơng cao lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá C­ường Địch Báo Hoàng Ân” và sau này trở thành một vị t­ướng tài ba xuất chúng trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Lập công danh ngày nay là của tất cả mọi ngư­ời và không chỉ khi đất n­ước có giặc ngoại xâm mà trong hoà bình vẫn cần lập công danh.
- Sống phải có hoài bão, ước mơ và biết mơ ước những điều lớn lao.
- Nỗ lực hết mình và không ngừng để thực hiện hoài bão và hoàn thiện bản thân.
- Gắn khát vọng, lợi ích của bản thân với lợi ích của tổ quốc, nhân dân.
20
4
Nhật Tường
04/12/2017 21:13:05
“Trai thời loạn”, thành ngữ dân gian ấy không biết có từ bao giờ. Có lẽ có khi từ lúc “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”(Nguyễn Khoa Điềm). Đó là ý thức về đóng góp của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc. Và thời Trần, thời đại anh hùng sản sinh ra những anh hùng. Thời đại đã hun đúc nên những nhân vật kì vĩ. Danh tướng Phạm Ngũ Lão là sản phẩm của hào khí Đông A. Ông vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tài năng cùng với lý tưởng yêu nước sáng ngời của ông đã tạo nên một con người Việt Nam ưu tú trong lịch sử: Phạm Ngũ Lão văn võ toàn tài: Tài võ ông đem hiến dâng cho sự nghiệp cứu nước. Tài văn ông dùng để làm thơ bày tỏ nỗi lòng của mình với bè bạn, với hậu thế và trước hết là tự nói với mình về ý thức trách nhiệm thiêng liêng, nghĩa vụ cao cả với Tổ quốc yêu quý. “Thuật hoài” chính là tiếng nói của một trái tim yêu nước thiết tha. Qua tiếng nói ấy, người đời được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trang nam nhi yêu nước thời Trần
Phạm Ngũ Lão đã chọn thể thơ tứ tuyệt Đường luật để bày tỏ khát vọng và hoài bão của mình. Đây là thể thơ rất hàm súc, rất ít lời mà có sức gợi lớn, ý tứ sâu xa, phù hợp với cách nói chắc nịch của một vị tướng vẫy vùng nơi trận mạc. Nhân vật trữ tình bày tỏ lòng mình qua hình tượng kỳ vĩ.
Câu khai của bài thơ tứ tuyệt đã mở ra hình ảnh một đấng nam nhi với tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ, hành động kỳ vĩ
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Người tráng sĩ không múa giáo mà cầm ngang ngọn giáo. Hai từ múa giáo trong lời dịch thơ chưa thể hiện được hai từ hoành sóc của câu thơ nguyên tác. Múa giáo có gì đó pha chút phô trương, biểu diễn hoặc nếu không dễ làm ta liên tưởng đến một trình độ thuần thục của nghề cung kiếm trong thao tác thực hành. Và như vậy nó làm mất đi cái cường độ nội sinh, nội lục. Người bản lĩnh cao không bao giờ tỏ ra trong cái hình thức bên ngoài như thế. Ở đây người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc). Trong câu thơ nguyên tác, tác giả dựng lên hình ảnh người tráng sĩ ở một tư thế tĩnh chứ không động. Tư thế ấy như dồn nén sức mạnh để để bùng nổ.Tầm nhìn của tráng sĩ bao quát cả giang sơn. “Giang sơn” là từ chỉ đất nước. Nó vừa diễn tả không gian mang sắc thái vũ trụ, vừa để diễn tả một ý niệm cụ thể là đất nước. Khi nói đến giang sơn thường có một sự liên tưởng đến bộ ba khái niệm”thiên, địa, nhân” (trời, đất, người), tức là thuyết tam tài, diễn tả ý niệm về tầm quan trọng của con người trong vũ trụ. Con người sánh ngang với trời đất, có trách nhiệm to lớn đối với thế giới. Vì vậy ở đây người tráng sĩ đã thể hiện tư thế và tầm nhìn của người chủ động canh giữ giang sơn quý báu của mình, sẵn sàng đón đánh quân cướp nước. Vậy, cái chí bình sinh thời loạn đã nâng cấp ngọn giáo thông thường lên tầm trách nhiệm với nước, với đời. Ngọn giáo ấy là non sông đã giao trách nhiệm ngàn cân mà người tráng sĩ không thể không làm tròn. Ngọn giáo cầm trong tay tráng sĩ như đo chiều rộng, chiều dài của Tổ quốc sẵn sàng bảo vệ, giữ gìn từng tất đất của quê hương, không thể cho quân giặc tàn phá, giày xéo. Khát vọng bảo vệ Tổ quốc dồn vào đôi cánh tay tráng sĩ đang chắc trong tay cầm ngang ngọn giáo, bất chấp cả thời gian trôi qua. Thực tế Phạm Ngũ Lão cầm quân giữ các cửa ải phía bắc từ cuối năm 1282 đến năm 1285 khi quân Mông- Nguyên kéo vào xâm lược nước ta. Thời gian ấy đúng là đã mấy thu (kháp kỉ thu). Người tráng sĩ ấy đã dạn dày dày sương gió, đã từng đối mặt với kẻ thù, bất chấp mọi nguy hiểm gian nan. Dù thời gian khiến nhiều việc đổi thay, duy nhất có khát vọng gìn giữ giang sơn là không hề thay đổi trong tấm lòng của trang nam nhi đất Việt
Câu khai đã làm trọn chức năng mở ra và đã hé mở tấm lòng son sắt của Phạm Ngũ Lão đối với quê hương đất nước. Từ thế của nhân vật trữ tình hiện lên thật hiên ngang lẫm liệt nhưng giọng điệu câu thơ lại bình tĩnh, khiêm nhường, ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng. Một ý chí sắt đá không gì thay đổi. Đi cứu nước là niềm tự hào, kiêu hãnh, niềm hạnh phúc lớn lao của trang nam nhi thời Trần.
Tướng thì phải có quân, tướng nào quân nấy. Người tráng sĩ đang sát cánh cùng ba quân với khí thế ngất trời. Dường như chí lớn của Phạm Ngũ Lão như đã truyền tới ba quân một năng lượng tinh thần, nhạy và nhanh để để kết thành một khối. Còn hơn thế, như người giữ lửa, truyền lửa độ sáng và độ ấm không hề dừng lại mà cứ lớn dần lên. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, lòng yêu nước lại sôi nổi, cả dân tộc kết thành một khối sức mạnh
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Thủ pháp so sánh và phóng đại được tạo dựng trong câu thừa. Ngoài ra câu thơ còn tạo được một ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khác quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tam quân ở đây mạnh như hổ báo thì sẽ đánh đâu thắng đấy, xứng đáng là nềm tin cậy của non sông. Đội quân anh hùng ấy cùng với cả nước sẽ đánh tan quân xâm lược nhà nghề hung hãn bậc nhất thế giới bấy giờ. Thực tế ba quân như hổ báo ấy đã ba lần xé xác, nuốt trôi đội quân trâu điên hung hãn. Sau này, một nhà thơ của sứ giả thiên triều Nguyên là Trần Phu viết phần nào ghi lại tâm trạng sợ hãi của quân xâm lược khi đến nước ta
Kim qua ảnh lí đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
(Trong bóng lòe của binh khí long son cay đắng
Giữa tiếng rộn của trống đồng tóc bạc mọc ra)
Chính những con người với những phẩm chất anh hùng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên hào khí Đông A chói lọi đó.
Thật sảng khoái tự hào biết mấy khi hai câu thơ gieo trồng trên một mảnh đất dường như không một lúc nào bình yên. Sinh vào thời Trần, ai cũng có cơ hội trở thành anh hùng. Đâu chỉ một lần Trần Quốc Tuấn đêm quên ngủ, ngày quên ăn chỉ với một nguyện vọng là được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Đó là sáu chữ vàng được thêu trên lá cờ của người thiếu niên Trần Quốc Toản. Đó là việc khắc tay binh sĩ hai chữ Sát Thát… Cả một không gian trận mạc lở đất rung trời. Hào khí Đông A trong thơ Phạm Ngũ Lão hào hùng trong bối cảnh ấy. Nó bắt nhịp được bước đi của thời đại, của dân tộc trong những giờ phút lâm nguy.
Câu thừa nâng cao, phát triển ý câu khai, tiếp tục cảm hứng tỏ lòng của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Cái lý tưởng sống của Phạm Ngũ Lão còn được thể hiện ở hoài bão, ý thức của bậc nam nhi với việc lập công danh để đời. Đó là nỗi lòng với cái chí và tâm lớn lao cao cả của người anh hùng.
Trong một bài thơ tứ tuyệt Đường luật thì câu chuyển có vị trí then chốt, có khi làm chuyển cả ý thơ, chuyển cả dạng cảm xúc. Phạm Ngũ Lão đã dùng câu thơ quan trọng này để chuyển sang nói về hoài bão và lý tưởng của mình.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Theo quan niệm Nho giáo phong kiến, làm trai trên đời phải có công danh sự nghiệp, cũng là để chứng tỏ cái chí của người quân tử, muốn được góp sức với đời góp công với nước. Có như vậy mới thỏa nguyện chí làm trai và làm vẻ vang cho cha mẹ, gia tộc. Theo sách Kinh lễ, nhà quý tộc khi sanh con trai thì lấy cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng bắn bốn phát tên ra bốn phương, ngụ ý làm trai co chí khí tung hoành ngang dọc bốn phương trời đất. Lý tưởng của chí làm trai ấy trong thời gian khá dài đã phát huy tích cực. Bao trí thức Nho gia đất Việt, các thế hệ đã sống say mê mãnh liệt với lý tưởng ấy và lưu danh muôn đời với sự nghiệp lớn lao cho đất nước, cho xã hội. Đó là một Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, đặc biệt là Nguyễn Công Trứ
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Điều đáng nói ở đây là Phạm Ngũ Lão đã gắn chí nam nhi với lý tưởng yêu nước thiêng liêng, với sự nghiệp cứu nước gian khổ mà cực kì vẻ vang. Đặt trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, chí làm trai của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ có tác dụng to lớn đôi với con người và xã hội, nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng hi sinh, chiến đấu cho sự nghiệp cứu nước.
Câu chuyển vang lên lên như một tuyên ngôn về cách sống anh hùng: Ai muốn sáng thì phải cháy lên!
Nhưng tướng quân Phạm Ngũ Lão, khát vọng hiến dâng còn mãnh liệt vô cùng, hầu như không có giới hạn. Cái tốt đẹp không bao giờ có điểm tận cùng. Phạm Ngũ Lão đã thể hiện khát vọng ước mơ, hoài bão mãnh liệt trong lòng ở câu hợp.
Tu thính dân gian thuyết Vũ hầu
Xuất hiện trong lòng vị danh tướng một nỗi thẹn. Suốt cuộc đời, Phạm Ngũ Lão không làm điều gì để phải thẹn với dân, với nước, với chính mình, Nói thẹn là là cách nói khiêm nhường, một cách thể hiện khát vọng, hoài bão mãnh liệt trong lòng. Mẫu nam nhi lý tưởng theo Phạm Ngũ Lão là người có tài mưu lược, có nhiều công trạng như Vũ hầu Gia Cát Lượng. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người nhỏ bé đi mà nó tôn cao nhân cách con người. Nỗi thẹn ấy đốt lên trong lòng người ngọn lửa của khát vọng vươn tới cái cao cả lớn lao. Ở một khía cạnh khác, cách nói đó lại là sự khẳng định đề cao đề cao ý thức trách nhiệm của Phạm Ngũ Lão với đất nước, với nhân dân. Câu thơ hợp đã để lại biết bao suy ngẫm cho người đọc.
Thuật hoài là lời tỏ lòng riêng của Phạm Ngũ Lão, là tiếng nói của một trái tim yêu nước mãnh liệt, thiết tha. Nhưng trong bài thơ không thấy có một đại từ nhân xưng nào. Chủ thể trữ tình ẩn dưới danh từ chung “nam nhi” nhắc đến “tam quân tì hổ” đông đảo, hùng hậu. Vì vậy, bài thơ bộc lộ khát vọng của tác giả, vừa bày tỏ trách nhiệm đối với Tổ quốc, tình cảm, ý chí, khí phách của quân dân đời Trần. Cái hay của bài thơ này còn ở độ súc tích cao theo hướng “quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong nghệ thuật văn học trung đại. Hình thức kết cấu theo nguyên tắc “ tức cảnh sinh tình”, nó được triển khai tứ bằng cách đi từ hiện thực, chọn những hiện tượng có thực tiêu biểu để dẫn dắt đến chỗ bộc lộ nhũng cảm xúc nội tâm sâu kín để bày tỏ tấm lòng yêu nước của tác giả và con người. Đó là “hào khí Đông A”, là cảm hứng yêu nước trong thơ lúc bấy giờ.
6
5
NoName.146565
23/12/2017 09:33:43
Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ qua bài Tỏ Lòng

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư