Trong thời kỳ phát triển hưng thịnh của mình, vương quốc Chăm-pa đã để lại cho hậu thế nhiều công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật, trở thành những di sản vô giá ngày nay . Trong đó, tháp Chàm Poshanư được coi là công trình chứa nhiều tinh hoa kiến trúc của người Chăm cổ nhất.
Tinh hoa văn hóa của người Chăm cổ
Nhóm đền tháp Chăm Poshanư (Phố Hài) được xây dựng từ thế kỷ 9, thuộc phong cách Hòa Lai – là một trong số nhiều phong cách nghệ thuật cổ của Chăm-pa. Khi mới xây dựng, tháp Chàm Poshanư được coi là công trình vĩ đại và là biểu tượng của Vương quốc Chăm-pa thời đó.
Ngày nay, cụm tháp Poshanư cổ vẫn còn được lưu giữ khá nguyên vẹn và nổi bật nhất trong số các di tích còn sót lại của người Chăm ở Bình Thuận như: nhóm tháp Bà Châu Rế (Hàm Phú – Hàm Thuận Bắc), nhóm tháp Pôdam (Phú Lạc – Tuy Phong). Tháp nằm cách trung tâm thành phố Phan Thiết khoảng 7km về hướng đông bắc, ở đồi Bà Nài, phường Phú Hải.
Tháp Chàm Poshanư còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Po Sah Inư (hay tháp Chăm Phố Hài), được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1991. Với những đường nét nghệ thuật kiến trúc truyền thống tinh tế và độc đáo, dấu ấn thời kỳ phát triển hưng thịnh của vương quốc Chăm-pa vẫn còn được lưu giữ rõ nét trên công trình kiến trúc tiêu biểu này.
Cụm di tích tháp Chàm Poshanư ngày nay là một trong những điểm đến du lịch thu hút với những ai yêu lịch sử, văn hóa. Ban đầu, tháp Chàm Poshanư được xây dựng để thờ phụng thần Shiva (vị thần quyền năng được người Ấn Độ và người Chăm rất tôn sùng, thành kính). Sau này, người Chăm xây dựng thêm nơi thờ công chúa Pôshanư, con gái vua Po Parachanh vào khoảng thế kỷ 14.
Quy mô của tháp Chàm Poshanư tuy không đồ sộ, bề thế như các cụm tháp Chăm khác nhưng lại chứa đựng được tinh hoa văn hóa của người Chăm cổ. Đó là kỹ nghệ kiến trúc và trang trí đặc biệt để tạo ra những công trình cổ kính, uy nghiêm, kỳ bí của người Chăm-pa.
Khi tới đây, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng và tìm hiểu nét độc đáo của công trình kiến trúc này mà còn có những kiến giải riêng của mình về những điều thú vị hiện diện trên di tích cổ này mà đến nay chưa có lời giải đáp.
Kiến trúc độc đáo
Chắc chắn, điều đầu tiên du khách thấy hấp dẫn khi đến thăm tháp Chàm Poshanư là kiến trúc độc đáo của nơi đây. Cụm di tích tháp này mang đậm phong cách kiến trúc Hòa Lai, như được xây bằng gạch đỏ và gắn kết bởi một chất kết dính đặc biệt, các cửa tháp có hình vòm cuốn, mặt bằng tháp hình vuông, hình dáng tháp thu nhỏ dần khi lên cao, bề mặt được chạm khắc nhiều hoa văn tinh tế, cột trụ tròn...
Không chỉ tháp Chàm Poshanư, ta còn có thể bắt gặp phong cách kiến trúc này ở nhiều công trình, di tích cổ khác của người Chăm như thánh địa Mỹ Sơn, tháp Po Dam, tháp Hòa Lai… Nhưng đặc sắc và ấn tượng nhất có lẽ vẫn là cụm tháp Chàm Poshanư.
Được coi là tuyệt tác mà người Chăm, cụm tháp Poshanư gồm một tháp chính và 2 tháp phụ, đều là tháp vuông nhiều tầng. Còn nhiều tháp khác đã sụp đổ nay chỉ còn là đống tàn tích.
Tháp chính A cao 15m, gồm 3 tầng, cửa chính hướng về phía Đông vì người Chăm cổ tin rằng đây là nơi trú ngụ của thần linh. Trong tháp chính thờ bộ phận sinh thực khí Linga – Yoni bằng chất liệu đá xanh đen nguyên khối.
Tháp C thờ Thần Lửa nằm bên cạnh tháp chính, có một cửa hướng về phía Đông. Đây là khối tháp nhỏ nhất trong 3 tháp, chỉ cao hơn 4m.
Xa hơn là tháp B thờ Thần Bò Nandi. Theo truyền thuyết, thần Bò là vật cưỡi của thần Shiva. Cơ bản tháp B có hình dáng giống tháp chính nhưng đơn giản hơn, tháp cao khoảng 12m.
Chuyện tình son sắt của công chúa Poshanư
Những câu chuyện cổ gắn với tháp Chàm Poshanư cũng là một trong những điều khiến du khách cảm động. Trong đó có chuyện tình sắt son của công chúa Poshanư.
Tương truyền, tháp Chăm được xây dựng để tưởng nhớ mối tình của công chúa Pôshanư và lãnh chúa Po Sahaniempar. Theo truyền thuyết dân tộc Chăm, lịch sử ra đời của Tháp gắn liền với chuyện tình đầy hạnh phúc nhưng cũng rất thương đau của công chúa Poshanư và lãnh chúa Po Sahaniempar (theo đạo Hồi, sống ở vùng Ma Lâm).
Trải qua nhiều trở ngại của luật tục tôn giáo, công chúa đã quyết định se duyên cùng lãnh chúa. Nhưng em trai công chúa không muốn chị mình kết hôn cùng người ngoại tộc nên đã bày mưu chia rẽ đôi vợ chồng. Trong một lần hành hương về, Po Sahaniempar không thấy vợ chờ đón, hiểu nhầm rằng Poshanư đã phản bội mình nên bỏ về phía nam.
Poshanư lặn lội đi tìm chồng để giải thích, khi đến Núi Ông – Tánh Linh thì tìm được chồng, nhưng lúc này ông đã yêu một người con gái dân tộc Raglây tên là Chargo. Cuối đời, Poshanư đã sống một mình ở Bianneh.
Để tôn vinh mối tình sâu lắng và công ơn bà Poshanư hướng dẫn nhân dân trồng trọt, khai rẫy, trồng bong dệt vải, dạy người dân những quy tắc ứng xử, giao tiếp tiến bộ… người Chăm đã tạc tượng Bà và thờ trong tháp.
Bởi thế, những lễ nghi tôn giáo quan trọng đều được thực hiện ở tháp Chàm Poshanư. Trong đó có lễ hội lớn nhất của người Chăm theo đạo Bàlamôn là Katê. Hàng năm, người hành hương khắp nơi kéo tới đây để cầu xin Bà ban cho một mùa ấm no, hạnh phúc.