Để vẽ đồ thị của hai hàm số y = x^2 và y = -x + 2 trên cùng một mặt phẳng tọa độ, ta làm như sau:
1. Đồ thị của hàm số y = x^2 là một đường parabol mở lên, có đỉnh tại gốc tọa độ (0,0). Để vẽ đồ thị này, ta có thể chọn một số điểm trên trục x, tính giá trị của y tương ứng và vẽ các điểm đó trên mặt phẳng tọa độ. Ví dụ, nếu chọn x = -2, -1, 0, 1, 2, ta có các điểm (-2, 4), (-1, 1), (0, 0), (1, 1), (2, 4). Kết nối các điểm này, ta sẽ có đồ thị của hàm số y = x^2.
2. Đồ thị của hàm số y = -x + 2 là một đường thẳng có độ dốc âm và cắt trục y tại điểm (0, 2). Để vẽ đồ thị này, ta chọn một số điểm trên trục x, tính giá trị của y tương ứng và vẽ các điểm đó trên mặt phẳng tọa độ. Ví dụ, nếu chọn x = -2, -1, 0, 1, 2, ta có các điểm (-2, 4), (-1, 3), (0, 2), (1, 1), (2, 0). Kết nối các điểm này, ta sẽ có đồ thị của hàm số y = -x + 2.
Sau khi vẽ được đồ thị của hai hàm số, chúng ta có thể xác định điểm giao nhau của hai đồ thị là điểm A. Điểm A có hoành độ âm, nên ta chỉ cần xem xét phần đồ thị nằm bên trái của trục y.
Để tính số đo góc ABM, ta sử dụng công thức tính góc giữa hai đường thẳng:
tan(ABM) = |(m1 - m2) / (1 + m1 * m2)|
trong đó, m1 và m2 lần lượt là hệ số góc của đường thẳng AB và đường thẳng BM.
Trên đồ thị, ta có thể chọn điểm B và tính được hệ số góc của đường thẳng AB, sau đó tính hệ số góc của đường thẳng BM dựa trên đạo hàm của hàm số y = x^2 tại điểm M. Tiếp theo, thay vào công thức trên, ta tính được số đo góc ABM.
Tuy nhiên,
để tính chính xác số đo góc ABM trong trường hợp cụ thể này, cần biết tọa độ của điểm B và M.