Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tác phẩm truyện kiều 

Phân tích tác phẩm truyện kiều 
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
81
1
3
Hoàng Hiệp
04/06/2023 21:55:41
+5đ tặng

Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19). Đây được coi là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật.

Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau. Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu. Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Giá trị nội dung của Truyện Kiều thể hiện ở giá trị hiện thực và nhân đạo. Trước hết, về giá trị nhân đạo, tác phẩm đã khắc họa bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo và coi trọng đồng tiền. Đồng thời, Nguyễn Du còn cho thấy một xã hội phong kiến bất công đã chà đạp con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống của gia đình Thúy Kiều đang bình yên. Nhưng chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, cha Kiều bị bắt. Cuộc đời Kiều phải rẽ sang hướng khác. Nàng phải từ bỏ duyên đẹp đẽ với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều còn bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán. Nàng còn trở thành vợ lẽ, bị người ta lăng nhục, đày đọa và cuối cùng phải tự vẫn.

Truyện Kiều đã bộc lộ sự trân trọng con người. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều từ những vẻ đẹp từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Tác phẩm còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuối cùng, truyện là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Mối tình Kim Trọng và Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc. Sự thủy chung, si tình của Kim Trọng khiến ta không khỏi ngưỡng mộ. Ngoài ra, với Truyện Kiều, tác giả còn thể hiện khát vọng công lí tự do với hình tượng nhân vật Từ Hải, người anh hùng dám chống lại xã hội phong kiến tàn bạo.

Tiếp đến là giá trị nghệ thuật mà đầu tiên phải kể đến về mặt ngôn ngữ. “Truyện Kiều” được đánh giá là đạt đến trình độ mẫu mực về ngôn ngữ. Nguyễn Du đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nhiều điển tích, điển cố được sử dụng để miêu tả tâm trạng, phẩm chất (“sông Tương”, “sân Lai”, “gốc tử”, “nàng Ban”, hay “ả Tạ”…). Cách dùng từ tinh tế là một trong những biệt tài của Nguyễn Du khi miêu tả nhân vật và cảnh vật. Ví dụ như khi miêu tả nhân vật Tú Bà, tác giả đã sử dụng từ láy “nhờn nhợt” (Thoắt trông nhờn nhợt màu da). Hay động từ “lẻn” (Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào) để làm nổi bật sự xảo quyệt của Sở Khanh…

Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du cũng để lại những ấn tượng sâu sắc. Nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng được sử dụng. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”:

“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Nguyễn Du cũng rất thành công khi xây dựng tâm trạng nhân vật với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Ngoài ra, việc sử dụng thể bát cũng đã mang lại những thành công to lớn cho việc chuyển tải nội dung tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đây là thể thơ vốn có rất nhiều yếu tố tạo hình và rất giàu tính nhạc, nhất là ở những đoạn khắc họa chân dung nhân vật.

Qua phân tích trên, có thể khẳng định, Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chính là di sản quý giá của nền văn chương nước nhà.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
3
Thái Thảo
04/06/2023 21:56:21
+3đ tặng

Nguyên bản tác phẩm Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Hiện nay, ở Việt Nam lưu truyền một số dị bản của tác phẩm này. Bản nôm cổ nhất còn lưu giữ là bản "Liễu Văn Đường" khắc in năm Tự Đức thứ 19 (1866), mới phát hiện ở tỉnh Nghệ An.

     Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ánh xã hội đương thời thông qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyên suốt tác phẩm là chữ "tâm" theo như Nguyễn Du đã tâm niệm "Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu" (nghĩa là "Linh Sơn chỉ ở lòng người thôi"). Ngày nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rãi nhất đến với các du khách cũng như các nhà nghiên cứu nước ngoài.

     Truyện Kiều đã từng được in ngược bởi Nhà xuất bản Thanh Niên để có thể đọc mạch truyện ngược chiều thời gian từ "tái hồi Kim Trọng" trở về đoạn mở đầu truyện lúc hai người còn chưa biết nhau.

     Truyện Kiều cũng là tác phẩm được viết và đóng thành quyển sách nặng nhất ở Việt Nam do nhà thư pháp Nguyệt Đình thực hiện. Truyện nặng 50 kg, làm trên trên khổ giấy 1 m × 1,6 m và hiện được trưng bày tại Khu di tích Nguyễn Du huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Hoàn cảnh ra đời

     Theo Giáo sư Nguyễn Lộc ("Từ điển Văn học" tập II – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984) trang 455 viết: "Đoạn trường tân thanh là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận"

Nội dung chính

     Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".

     Theo kịch tính của tác phẩm, có thể chia truyện thành những phần nhỏ như sau:

Nhận định chung của Nguyễn Du

Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện.

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Tả hai chị em

     Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thúy Kiều lại hơn hẳn cô em.

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Kiều thăm mộ Đạm Tiên

     Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Kiều gặp Kim Trọng

     Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:

Người đâu gặp gỡ làm chi

Trăm năm biết có duyên gì hay không

     Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo, cô đã thuyết phục được Kim Trọng:

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân ắt lại đền bồi có khi!

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân

Kiều bán mình chuộc cha

     Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:

Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

     Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

     Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.

     Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà. Mã Giám Sinh vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong đã tỏ đường đi lối về", Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

và nỗi nhớ thương cha mẹ của Kiều:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

     Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Kiều mắc lừa Sở Khanh

     Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.

Than ôi! sắc nước hương trời,

Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

     Kiều vội vàng tin Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,

Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

     Bị tú bà đánh kiều phải hứa sẽ không trốn chạy cũng như gìn giữ tiết hạnh nựa Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Kiều gặp Thúc Sinh

     Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh

Rõ màu trong ngọc trắng ngà!

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

     Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".

Khi hương sớm khi trà trưa,

Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.

     Thúc Sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:

Phong lôi nổi trận bời bời,

Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.

Quyết ngay biện bạch một bề,

Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!

     Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:

Dạy rằng: Cứ phép gia hình!

Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.

Phận đành chi dám kêu oan,

Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.

Một sân lầm cát đã đầy,

Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.

     Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.

Kiều và Hoạn Thư

     Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đã phải thốt lên:

Thương vì hạnh trọng vì tài

Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba

     Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:

Bốn dây như khóc như than

Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng

Cũng trong một tiếng tơ đồng

Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm

     Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thuý Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan… rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ "Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.

Kiều gặp Từ Hải

     Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một anh hùng lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau "Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa" và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:

Nàng rằng:"phận gái chữ tòng"

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

Từ rằng:"tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình…"

     Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy.

Kiều báo ân trả oán

     Lúc vui mừng cũng là lúc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,… đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận chưa đoàn tụ ngay được với gia đình.

Kiều tự vẫn

     Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:

Trên vì nước dưới vì nhà,

Một là đắc hiếu hai là đắc trung.

Từ Hải đã phân vân:

Một tay gây dựng cơ đồ

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành

Bó thân về với triều đình

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

Vào luồng ra cúi công hầu mà chi

Sao bằng riêng một biên thùy

Sức này đã dễ làm gì được nhau

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai

     Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:

Mặt nào trông thấy nhau đây?

Thà liều sống thác một ngày với nhau!

     Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:

Một cung gió thảm mưa sầu,

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!

Ve ngâm vượn hót nào tày,

Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.

     Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.

Kim Trọng đi tìm Kiều

     Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:

Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa

Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai

Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi

Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê

     Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".

Đoàn tụ

     Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:

Thân tàn gạn đục khơi trong

Là nhờ quân tử khác lòng người ta

     Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa.Tuy rằng ngoài mặt hai người đã đồng ý nhưng hai người đã thầm nói sẽ trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ".

     Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:

Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Những ảnh hưởng chính

     Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Đây là một trong số ít các tác phẩm lớn được nhiều người dân đủ mọi tầng lớp học thuộc lòng. Đối đáp bằng những ngôn từ, lời lẽ trong truyện Kiều cũng đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá của một số cộng đồng người Việt như lẩy Kiều, trò Kiều, vịnh Kiều, tranh Kiều, bói Kiều… Ngày nay, tên một số nhân vật và địa danh trong Truyện Kiều được sử dụng trong đời sống với nghĩa tương tự:

4
1
Kiên
04/06/2023 21:59:53
+3đ tặng

Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc, ông đã góp vào nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. “Truyện Kiều” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Mỗi trích đoạn trong “Truyện Kiều” đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và đoạn trích “Trao duyên” – trích từ câu 723 đến câu 756 là một trong số đó. Đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, đồng thời cũng cho thấy phẩm chất cao đẹp của nàng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nỗi lòng của Thúy Kiều khi nàng tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân – em gái của mình. “Trao duyên” trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là điều khó nói và Thúy Kiều cũng không ngoại lệ, để rồi nàng đã thật ý tứ và tế nhị tìm lí do để thuyết phục Thúy Vân. Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích đã gợi lên tư thế, dáng điệu của Thúy Kiều khi thuyết phục em.

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Tác giả Nguyễn Du đã có cách sử dụng từ ngữ thật độc đáo và gợi lên thật nhiều ý nghĩa. “Cậy” là từ ngữ dùng để diễn tả thái độ van nài, năn nỉ, như phó thác tất cả vào người đối diện. “Thưa” là thái độ kính cẩn, của người bề dưới nói với người bề trên, của người chịu ơn đối với người ban ơn. Chính việc sử dụng hai từ ngữ này đã cho thấy tư thế, vị trí của Thúy Kiều đối với Thúy Vân.

Kiều lạy, thưa Thúy Vân bởi lẽ hơn ai hết, Kiều hiểu trong hoàn cảnh hiện tại, Kiều đang phải nhờ vả, phải mang ơn em gái của mình khi nhờ em nối duyên với một người mà em gái cô chưa một lần gặp mặt, quen biết. Kiều lạy thưa em gái mình chính là lạy thưa một ân tình, một đức hi sinh cao cả. Hành động ấy của Kiều tưởng chừng như vô lí, trái với luân thường đạo lí nhưng trong hoàn cảnh của Kiều nó lại thật hợp lí bởi Thúy Vân đang ở vị trí của người ân nhân.

Thúy Kiều lạy, thưa Thúy Vân xong rồi nàng đã giãi bày nỗi niềm của mình với em và có lẽ đó cũng chính là những lí do để thuyết phục Thúy Vân, trao duyên cho em.

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa gặp em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Sáu câu thơ, ngắn thôi, nhưng có lẽ cũng đủ để Thúy Kiều nói hết nỗi lòng, hoàn cảnh của mình ở thời điểm hiện tại. Chuyện tình yêu của Thúy Kiều đang độ mặn mà, nồng thắm với biết bao ước thề, ấy vậy mà “giữa đường đứt gánh tương tư”, tai họa ập đến, chuyện tình đẹp như mơ ấy dường như đã “đứt gành rồi”. Thúy Kiều đang đứng giữa sự lựa chọn giữa “hiếu” và “tình” – một sự lựa chọn không mấy dễ dàng. Giờ đây, Thúy Kiều không còn sự lựa chọn nào khác, nàng chỉ còn biết trông chờ vào Thúy Vân, nhờ em “chắp mối tơ thừa”.

Hai chữ “mặc em” như đổ dồn tất cả lên vai Thúy Vân, như một lời khẩn cầu, một sự phó thác tha thiết từ tận đáy lòng của Kiều. Không chỉ giãi bày với em về cảnh ngộ của mình hiện tại, Thúy Kiều còn kể lại thật ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ về chuyện tình của mình với chàng Kim – một mối tình với biết bao thề hẹn, bao ước thề nhưng giờ đây đã giang dở. Đồng thời, để tăng thêm phần thuyết phục, Thúy Kiều đã đưa ra thêm những lí lẽ khác, thuyết phục Thúy Vân bằng tình cảm chị em, tình máu mủ:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Kiều biết Vân vẫn còn trẻ, “ngày xuân còn dài” với biết bao yêu thương, hạnh phúc đang đón chờ nhưng vì tình chị em, tình máu mủ ruột thịt mà đồng ý thay mình bén duyên với Kim Trọng. Thêm vào đó, với việc sử dụng thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, Kiều đã nói về cái chết của mình – một cái chết đầy mãn nguyện, thể hiện sự cảm kích của mình đối với Vân.

Như vậy, với cách lập luận chặt chẽ, Thúy Kiều đã nhờ cậy, thuyết phục Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Đồng thời, qua đó cho thấy diễn biến tâm trạng đầy phức tạp và sự sắc sảo, thông minh, giàu đức hi sinh và sự nghĩa tình của Thúy Kiều.

Sau khi thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã trao lại kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho em.

Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người đọc sẽ không thể nào không cảm thấy đau đớn, xót xa cho số phận, tình cảnh của Thúy Kiều. Có thể dễ dàng nhận thấy, “chiếc thoa”, “bức tờ mây’, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” là “của tin”, là vật đính ước thề nguyền, là kỉ vật tình yêu đã chứng kiến cho chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng. Ấy vậy mà giờ đây Thúy Kiều đành dứt lòng để trao lại cho em, chúng trở thành “của chung” của Thúy Kiều, Kim Trọng và cả của Thúy Vân nữa.

Thứ duy nhất Kiều giữ lại cho mình đó chính là “duyên này” – là tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Đau đớn, xót xa và đầy giằng xé khi trao kỉ vật cho em, Thúy Kiều còn đau đớn hơn khi nghĩ đến tương lai của mình và để rồi nàng căn dặn em thật xúc động.

Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy soi tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Với hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ gợi liên tưởng đến cái chết như “hiu hiu gió”, “hồn”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “người thác oan”,… đã cho thấy dự cảm của Thúy Kiều về tương lai của mình. Đó là một tương lai đầy sóng gió và có lẽ bởi vậy, Kiều đã nghĩ tới cảnh mình bị chết oan, hồn không thể nào siêu thoát được vì vẫn còn vương vẫn mãi lời thề với Kim Trọng. Điều đó một lần nữa cho thấy nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Để rồi, sau đó Thúy Kiều đã dặn dò Thúy Vân, phải đền ơn đáp nghĩa và rửa oan cho mình. Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em nhưng trong lòng nàng vẫn luôn đau đáu một nỗi đau đến tột cùng và càng đau, càng xót, Thúy Kiều càng nhớ thương Kim Trọng nhiều hơn.

Nghĩ đến tương lai với bao dự cảm không lành để rồi sau đó, Thúy Kiều lại trở về với thực tại xót xa để tự giãi bày lòng mình, hướng về tình yêu và nhớ về Kim Trọng.

Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Từ hình thức đối thoại chuyển sang hình thức độc thoại, những câu thơ đã thể hiện một cách rõ nét tâm trạng của Thúy Kiều. Hơn bất cứ lúc nào, Thúy Kiều ý thức sâu sắc về thực tại của mình với số phận nổi trôi, lỡ dở, lênh đênh. Điều đó thể hiện rõ nét qua việc sử dụng hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng”,…

Thêm vào đó, đoạn thơ còn cho thấy nỗi đau đến xé lòng của Thúy Kiều và nỗi nhớ thương Kim Trọng khôn nguôi. Kiều tự nhận mình là kẻ phụ bạc, là người đã làm tan vỡ mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng. Đặc biệt, tiếng gọi Kim Trọng với nỗi đau đến xé lòng của Kiều cùng cách thay đổi từ ngữ xưng hô thành “Kim lang” đã cho thấy sự nghẹn ngào, tức tưởi của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” bằng hình thức thơ độc đáo, ngôn ngữ vừa trang trọng, vừa giản dị, sử nhiều thành ngữ quen thuộc đã thể hiện một cách chân thực và rõ nét nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đồng thời, qua đó thấy được bi kịch tình yêu của Thúy Kiều và hơn ai hết, Nguyễn Du cảm thấy đau đớn, xót xa về điều đó.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×