Mặc dù xuất hiện muộn trên văn đàn nhưng Nam Cao nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình. Các trang văn hiện thực của ông đã phản ánh chân thật cuộc sống và số phận của con người thời đại ông sống. Một số tác phẩm đóng đinh trong sự nghiệp của ông như Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách Mõ… Trong đó truyện ngắn Tư cách Mõ là một trong những tác phẩm xuất sắc đã thể hiện tài năng bậc thầy của nhà văn.
Chủ đề miếng ăn luôn chiếm vị trí quan trọng trong những sáng tác của nhà văn Nam Cao. Vì nỗi ám ảnh cái đói cái nghèo nên nhà văn luôn có những khai thác rất chân thật về miếng ăn trên trang văn. Từ Một bữa no, Lão Hạc cho đến Tư cách Mõ chúng ta thấy số phận của nhân vật đều xoay quanh cơm áo, gạo tiền, miếng ăn.
Tư Cách Mõ vẫn lấy bối cảnh quen thuộc là làng quê Việt Nam dưới hai ách áp bức nô lệ và phong kiến. Dưới bóng đen của xã hội cuộc sống của người thôn quê Việt Nam hiện lên với đầy những sự ngột ngạt, bí bách. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người nông dân Việt Nam dưới đáy xã hội, tiêu biểu ở đây là nhân vật Lộ. Lộ vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, chịu khó làm ăn nhưng chỉ vì sự ghẻ lạnh của người đời, sự đưa đẩy của xã hội anh ấy bị biến chất, tha hoá, bị huỷ hoại nhân hình và nhân tính. Chì vì bị xúc phạm nặng nề Lộ đã biến thành một kẻ tham lam, ti tiện, bẩn thỉu “ Từ đấy, không những hắn đòi cổ to, lúc ăn hắn còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa, không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cổ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu để lại ăn hai, ba ngày…”. Qua những câu chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, xoay quanh miếng ăn của con người, Nam Cao đã tái hiện cảnh sống vô cùng khốn khổ bần cùng của con người. Qua đó tác giả đã thể hiện sự cảm thông, chua xót cho những nỗi cơ cực của người nông dân.
Trước khi trở thành tha hoá như vậy, Lộ hay Chí Phèo hay bà lão (Một bữa no) vốn là những con người hiền lành và giàu lòng tự trọng. Lộ lại thuộc dạng nghèo hèn, ít học trong xã hội, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Thế nên khi nói đến cái nghề mõ mạt hạng người ta đã nghĩ ngay đến Lộ. Người ta dỗ ngon dỗ ngọt anh, xúi anh làm mõ để gánh vác trọng trách giúp việc làng, cũng là có thêm thu nhập. Thật thà Lộ cũng đồng ý làm theo, thế nhưng anh có ngờ đâu người ta khinh rẻ anh, người ta coi thường người làm mõ. Đi đâu anh cũng bị xoi mói, khinh ghét, nói ra nói vào, rồi hùa nhau giăng bẫy anh. Con giun xéo mãi cũng phải quằn, tức nước thì vỡ bờ, đã vậy anh sẽ trở nên bần tiện, mạt hạng đúng ý với sự dèm pha của người đời. Con đường tha hoá của Lộ chính là kết quả do sự nhào nặn của xã hội thực dân nửa phong kiến. Của chính quyền, của những định kiến xấu xa trong xã hội. Xoay quanh số phận của Lộ tác phẩm đã đặt ra vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là lời kêu cứu khẩn thiết, hãy cứu vớt lấy linh hồn con người, cứu lấy nhân phẩm của họ.
Làm nên thành công của tác phẩm này không thể không nhắc đến nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật bậc thầy. Nam Cao như đã sống cùng với nhân vật Lộ, thấu hiểu, đồng cảm với những nỗi khổ của anh, nói hộ tiếng lòng của anh. Kết cấu truyện đi thẳng vào vấn đề trung tâm, không vòng vo cũng là điểm thu hút của truyện ngắn. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan, dễ dàng đi ngược về quá khứ, rồi lại trở lại hiện tại giúp tác phẩm có điểm nhìn linh hoạt. Ngôn ngữ mang tính chất đời thường, thể hiện qua những mẩu đối thoại, những dòng nội tâm của nhân vật cũng góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Vì thế có thể khẳng định với Tư cách Mõ Nam Cao đã khẳng định vị trí vững chãi của mình trên thi đàn văn học. Ông cũng đã có những cách tân lớn lao về thi pháp nghệ thuật, góp phần quan trọng vào việc đổi mới văn học Việt Nam.