Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Xác định phương thức biểu đạt của văn bản

----- Nội dung dịch tự động từ ảnh -----
L. PHẢN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
HIỆN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA
Thân Nhân Trung
(1)[...] Tôi dẫu nông cạn vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm
bài ki rằng:
2) “Hiền tài là nguyên khi của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao,
nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thành để minh vương chẳng ai không
lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khi làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với
quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa
danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu
tên ở tháp Nhạn, ban cho
danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hi. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến
mức cao nhất.
(3) Nay thánh mình lại cho rằng, chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, nhưng lời khen
tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên lại dựng đá đề danh đặt ở cửa Hiền Quan,
khiến cho kẻ
sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua. Há chi là chuộng văn suông,
hạm tiếng hão mà thôi đâu.
(4) Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đình đề cao rất mực như
thể, thì họ phải làm thể nào để tự trọng tấm thân mà ra sức bảo đáp?
(5) Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính
sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có
những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được
nhìn tấm bia này. Vi thủ hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám
này sinh như vậy được? Thế thì việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người
thiện theo đó mà gắng dẫn việc đi vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa đề
củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu ý sâu
này. […]
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt của văn bản.
(Ngữ văn 10, tập 2,NXB Giáo dục, 2006, tr.31-32)
Câu 2. Em hiểu thế nào là người hiền, người tài. Thái độ, tình cảm của tác giả đối với hiền tài trong đoạn
trích?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu sau:
“Vì vậy các đẳng thành để minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ
sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan điểm sau của tác giả không? Vì sao?
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khi
suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”
Câu 5. Rút ra thông điệp ý nghĩa từ đoạn trích trên.
II. PHẢN VIỆT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về nhân vật “tôi” trong văn bản sau.
BÍ ĂN CỦA LÀN NƯỚC
- Bảo Ninh -
Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao
nhiêu lần câu chuyện đời đã diễn ra. Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh
hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi.
Năm ấy, nhằm trùng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vật để canh giữ đằng
trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lỡ
của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng
Từ trên điểm canh, tôi chạy lao về làng. Hồi chiều hay tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời
vị trí hộ đê. Bây giờ giỏi đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôi. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đội
chân. Đằng sau, cơn đại hồng thuỷ đuổi bên gót.
Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong
đêm đen. Đến khi mái ra sắp rã tan ra thì ơn trời nó vướng vào thân đa trước đình làng. Đã có cả một
làm đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chia xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư
dứa con mới sinh, nhất định không để tôi bị độ.
- Con trai .... con trai mà .... con trai .... Để em ẵm, anh vụng.
1 trả lời
Hỏi chi tiết
56
1
1
+5đ tặng
cho minh 10 diem nha ban iu:333

Văn bia là bài văn khắc trên mặt đá nhằm ghi chép lại những sự việc trọng đại, hoặc tên tuổi, cuộc đời của những người có công đức lớn để lưu truyền đến muôn đời sau. Bia có ba loại chính: bia ghi công đức, bia ghi việc xây dựng các công trinh kiến trúc lớn và bia lăng mộ. 

Bia ghi công đức thường có ba phần: Phần thứ nhất là tự (kể), nêu lí do, quá trình làm bia, tiểu sử nhân vật được khắc vào bia; phần thứ hai (viết bằng văn vần) tóm đươc_nội dung tự sự ở trên để người dọc dễ ghi nhớ, phần này còn gọi là minh (ghi nhớ); phẩn thứ ba ghi ngày tháng, họ tên người làm bia (viết bằng vãn xuôi). Dần dẩn, phần tự trở thành nội dung quan trọng nhất, thể hiện tư tưỏng, quan điểm của người dựng bia.
Bài kỉ đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Dại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhãn Trung viết năm 1484 dưới thời Hổng Đức, theo lệnh vua Lê Thái Tông. Bài kí này giữ vai trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ được dựng ở nhà bia Văn Miếu (Hà Nội). Bài văn Hiền tài là nguyên khí của quốc gia được trích tử bài kí trên.
Nội dung cơ bản của bài văn này là giải thích ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Mục đích cơ bản nhất là tôn vinh những người hiền tài, có công lớn với đất nước, vừa để ghi công, vừa là một hình thức động viên khích lệ để họ dồn tâm huyết và sức lực hơn nữa vào việc chăm lo cho vận mệnh
quốc gia. Bài kí có kết cấu giống như một bài Tựa, cũng là một vàn bản chính luận với lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, ngôn ngữ hàm súc, giàu ý nghĩa, có sức . truyền cảm và thuyết phục rất lớn.
Bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia tuy là đoạn trích nhưng kết cấu rất hợp lí, rõ ràng, có thể chia làm hai đoạn:
Đoạn 1: Tử đầu… đến cao nhất: Hiển tài có vai trò vô cùng quan trọng đới với vận mệnh đất nước.
Đoạn 2: Phần còn lại: Ý nghĩa và tác dụng to lớn của việc khắc bia ghi tên các bậc hiền tài đối với người dương thời và các thế hệ sau.
Đoạn trích được mở đầu bằng lời lẽ thể hiện thái độ khiêm tốn của người viết: Tôi dẫu nông cạn vụng vể, nhưng đâu dám từ chối xin kính cần chắp tay củi đầu mà làm bài kỉ…
Sau đó, ông nhận định về giá trị của người tài đức trong xã hội bằng một chân lí đã dược đúc kết từ lâu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức. Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là chất làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước. Người hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhàn kiệt. Là sự đúc kết của khí thiêng sõng núi nên : Hiển tài là nguyên khí của quốc gia : nguyên khỉ thịnh thì thế nước mạnh, rổi lên cao, nguyên khi suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
Để chứng minh cho nhận xét của mình là đúng, Thân Nhân Trung nêu việc làm đã thành quy luật của vua chúa bao đời: Vì vậy. các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bối dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trổng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nôn quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đổ cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.
Bằng cách viết ngắn gọn, súc tích, tác giả đã nêu bật được vai trò quan trọng của hiển tài đối với vận mệnh quốc gia. Tuy nhiên, theo ý của bậc thảnh minh thì những ưu đãi kể trên vẫn chưa đủ, mà phải làm bia đá khắc tên và công lao của các bậc hiền tài để lưu tiếng thơm muôn đời, để động viên những người mà triểu đình đã và đang trọng dụng, đổng thời khích lệ kẻ sĩ nỗ lực hết minh, ra sức giúp vua, giúp nước:

Nay thánh minh lại cho rằng, chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nôn lại dựng đá để danh đặt ở cửa Hiền Quan, khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông, ham tiếng hão mà thôi đâu.
Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đinh để cao rất mực như thế, thì họ phải làm thố nào để tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp ?
ổ phẩn thứ hai, tác giả khẳng định việc dựng bia tiến sĩ là đúng đắn và cần thiết, bởi ngoài ý nghĩa tôn vinh hiền tài, ghi nhở công ơn người có công với dân tộc thi mục đích lâu dài và sâu sắc của việc dựng bia là răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha hoá biến chất của những người có tài trong thiên hạ:
Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử hồi đó được mát thấy thì lòng thiện tràn đầy, ỷ xấu bị ngăn chận, đâu còn dám nảy sinh như vậy được ? Thế thì việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc đĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa đề củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu ý sâu này.
Nhân tài của đất nước trong các thời đại tuy không nhiều song cũng không quá hiếm hoi, nhưng để họ trở thành hiền tài, nguyên khí của quốc gia thì triều đình cần phải có những chính sách sử dụng hiệu quả. Tác giả đả đưa ra một số trường hợp tài mà không hiền và nêu lí do là bởi họ không được răn dạy, không cố điểu răn dạy trước mắt. Mục đích và ý nghĩa của việc dựng bia đá được tác giả nêu lên rất cụ thể. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước.
Dựng bia ghi danh tiến sĩ là việc làm có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc, vì vậy, những lí lẽ, lập luận giải thích phải triệt để. Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã
thực hiện xuất sắc điều đó. ổng giải thích rất rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng vân suông, ham tiếng hão mà là một phương thức cán thiết để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.
Tuy vậy, lí do quan trọng nhất để bậc thánh minh quyết định dặt bia đá à cửa Hiền Quan văn là để nêu cao vai trò quan trọng của hiền tài đối với dân tộc. Lối kết cấu khép kín của bài kí đã khẳng định điều đó. Bài kí mở đầu bằng câu: Hiền tài là nguyên khỉ của quốc gia và kết thúc với ý củng cố mệnh mạch cho nhà nước.
Bằng phương pháp lập luận chặt chê và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính xác, tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng nhân tài đúng đắn và hợp lí. Biết phát hiện, đẩu tư đào tạo và tôn trọng nhân tài – đặc biệt là hiền tài thì sự nghiệp dân giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư