Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết về một tác giả văn học mà em đã học ở ctrinh lớp 10 11 theo hướng nghiên cứu văn học

Viết về một tác giả văn học mà em đã học ở ctrinh lớp 10 11 theo hướng nghiên cứu văn học
2 trả lời
Hỏi chi tiết
51
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Một trong những tác giả văn học đáng chú ý mà em đã học trong chương trình lớp 10 và 11 là Nguyễn Khải. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, nổi bật với những tác phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử của đất nước.

### Tiểu sử và sự nghiệp

Nguyễn Khải (1930 - 2008) có tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ra ở Hà Nội. Ông trưởng thành trong bối cảnh đất nước trải qua nhiều biến động lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chiến tranh Việt Nam. Văn nghiệp của ông bắt đầu vào những năm 1950 và trải dài đến những thập kỷ sau này. Trong suốt sự nghiệp của mình, Nguyễn Khải đã viết nhiều thể loại, từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch bản điện ảnh, nhưng nổi bật nhất vẫn là những tác phẩm mang tính tự sự, phản ánh sâu sắc tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam trong bối cảnh đổi mới.

### Nội dung và phong cách sáng tác

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Khải có thể kể đến là “Mùa lạc”, “Hai người bạn” và “Bức thư tình cuối cùng”. Trong những tác phẩm này, ông thường khai thác những vấn đề xã hội, tình yêu, tình bạn và lý tưởng sống của con người. Ông không chỉ phản ánh cuộc sống bên ngoài mà còn đi sâu vào tâm lý nhân vật, khai thác những trăn trở, đấu tranh nội tâm của họ.

Phong cách viết của Nguyễn Khải rất gần gũi, dễ hiểu và chân thực, nhưng cũng không thiếu sự tinh tế và trí tuệ. Ông sử dụng ngôn ngữ đơn giản, gắn liền với đời sống thường nhật, nhưng vẫn có những khúc cao trào và triết lý sâu sắc. Điều này giúp độc giả dễ dàng cảm nhận được những giá trị nhân văn, đồng thời cùng suy ngẫm về cuộc sống.

### Những đóng góp cho văn học

Nguyễn Khải không chỉ là một nhà văn mà còn là một người có tầm nhìn và triết lý sâu sắc về cuộc sống. Ông đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng hình ảnh người trí thức Việt Nam trong thời kỳ cách mạng, thể hiện những khát vọng, mơ ước về một tương lai tươi sáng cho đất nước.

Nguyễn Khải cũng là một trong những người đi đầu trong việc viết về cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phản ánh những vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Những tác phẩm của ông luôn mang tính thời sự, chạm đến những nỗi niềm, tâm tư của con người trong bối cảnh thay đổi.

### Kết luận

Nguyễn Khải là một tác giả văn học có sức ảnh hưởng lớn, không chỉ trong lòng độc giả mà còn trong môi trường văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông là tài liệu quý giá cho việc nghiên cứu văn học, giúp thế hệ trẻ nhận thức rõ hơn về giá trị của con người và xã hội qua từng thời kỳ lịch sử. Việc học tập và nghiên cứu về Nguyễn Khải không chỉ là tìm hiểu về một nhà văn mà còn là hành trình khám phá những giá trị sâu sắc của văn hóa và tri thức Việt Nam.
2
0
Quỳnh Anh
22/08 10:03:16
+5đ tặng

Năm nay, nhà văn Tô Hoài đã bước vào tuổi 90, vượt xa cái ngưỡng nhân sinh thất thập cổ lai hi và sự nghiệp văn chương của ông cũng đã kéo dài suốt bảy mươi năm. Quả là một hiện tượng hiếm có không chỉ ở nước ta mà cả trên thế giới. Bút danh Tô Hoài trở nên quá thân quen đối với nhiều thế hệ bạn đọc, trong đó có tôi.

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 17 - 9 - 1920 ở quê ngoại, tức làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ ; nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Còn quê nội của ông ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Có thể gọi Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, vì ông sinh ra, lớn lên và gắn bó suốt cuộc đời mình với đất Thủ đô ngàn năm văn vật. Hình ảnh quê ngoại đã in sâu trong tâm khảm nhà văn, cung cấp tư liệu cho ông viết nên rất nhiều tác phẩm nổi tiếng.

Vốn có năng khiếu văn chương từ nhỏ nên Tô Hoài sáng tác từ khi mới hết tuổi thiếu niên. Nhà nghèo, không được học hành đến nơi đến chốn, Tô Hoài tự bù lại bằng cách lăn lộn học ở trường đời. Ông làm nhiều việc để kiếm sống như thợ thủ công dệt lụa, dạy học tư, kế toán tiệm buôn...

Vừa đi làm, ông vừa tranh thủ đọc sách báo và tập viết văn. Là một người nặng lòng với quê hương nên ông đã lấy bút danh là Tô Hoài (sông Tô Lịch chảy qua phủ Hoài Đức quê ngoại).

Đến với văn chương từ năm 1939 và Tô Hoài trở nên nổi tiếng sau thiên truyện Dế Mèn phiêu lưu kí. Được giác ngộ cách mạng, ông tích cực tham gia vào phong trào Thanh niên phản đế và đến năm 1943 gia nhập Hội văn hoá cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh và viết báo bí mật. Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, trong hàng ngũ trùng trùng điệp điệp quần chúng vùng lên giành chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng có mặt Tô Hoài.

Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí. Từ năm 1951, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam và đã giữ các chức vụ Tổng thư kí, phó Tổng thư kí Hội, kiêm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Ông còn là đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Tập Truyện Tây Bắc nội dung phản ánh hiện thực cuộc sống cơ cực, tăm tối và quá trình đến với cách mạng của đồng bào miền núi là kết quả chuyến đi ròng rã tám tháng của nhà văn trên khắp các nẻo đường chiến khu, chung sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong tập truyện này, tác phẩm được nhắc đến nhiều và có giá trị nhất là Vợ chồng A Phủ, đã được trao giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955.

Kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, chấn động thế giới. Miền Bắc được giải phóng hoàn toàn. Đảng lãnh đạo nhân dân khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Nhà văn Tô Hoài có điều kiện thuận lợi để tập trung vào sáng tác. Ông đi nhiều, viết nhiều và thành công trong nhiều thể loại : truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim, phê bình tiểu luận văn học...

Các tác phẩm chính trước cách mạng gồm: Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Cỏ dại, Nhà nghèo. Sau cách mạng gồm: Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Mười năm, Tự truyện, Chuyện cũ Hà Nội... Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ông cho ra đời một số tác phẩm được dư luận rất quan tâm như Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chiếc áo tế... Tất cả những gì về lịch sử và hiện thực cuộc sống mà khối óc sáng suốt và trái tim nhạy cảm của nhà văn thu nhận được qua cuộc hành trình dằng dặc xuyên thế kỉ đã được tái hiện qua từng trang viết. Mỗi tác phẩm đều phản ánh những giai đoạn thăng trầm của dân tộc nói chung và của bản thân nhà văn nói riêng. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc, nhà văn Tô Hoài đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Hồi mới học lớp 3, tôi đã say mê đọc cuốn truyện Dế mèn phiêu lưu kí, ngoài bìa vẽ chú Dế Mèn hăng hái trên con đường phiêu lưu mới mẻ và hấp dẫn. Tôi thích thú hoà mình vào thế giới của các sinh vật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Biệt tài kể chuyện của Tô Hoài đã thể hiện rất rõ trong cuốn truyện thiếu nhi này và người đọc có thể tìm thấy bóng dáng xã hội loài người qua tác phẩm. Lớn hơn một chút, tôi đọc Đảo hoang, Chuyện nỏ thần... Tôi cũng đã đọc "ké" của mẹ tôi - một giáo viên Văn Trung học phổ thông - khá nhiều tác phẩm của Tô Hoài như: Truyện Tây Bắc, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều... để rồi nhận ra rằng vốn sống của tác giả giống như một mỏ than tầng tầng lớp lớp, có trữ lượng vô cùng lớn, khai thác biết bao giờ cho cạn.

Tôi rất thích lối kể chuyện tự nhiên, dung dị, đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh, tả người, tả tâm lí nhân vật... đã đạt đến trình độ bậc thầy của nhà văn Tô Hoài. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. .

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài ít có tác giả nào sánh kịp. Vốn sống phong phú, trình độ hiểu biết sâu rộng, khả năng thiên phú và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, dẻo dai... đã tạo nên một tên tuổi được đông đảo bạn đọc yêu mến và kính trọng. Tôi vẫn mong tiếp tục được đón nhận những tác phẩm mới của nhà văn Tô Hoài - người đã vượt xa cái ngưỡng "thất thập cổ lai hi" mà sức sống và sức viết vẫn bền bỉ, dẻo dai, thật đáng khâm phục!

 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
+4đ tặng

Tác giả Nam Cao - tuổi nghề chỉ trên 10 năm nhưng sự nghiệp lại kết nối cả hai giai giai đoạn lịch sử quan trọng trước và sau 1945. Những tác phẩm của Nam Cao để lại đã trở thành bức phù điêu bất hủ trong lịch sử văn học hiện đại của Việt Nam. Chẳng thấy ở tác giả nào mà đời sống và đời văn lại gắn bó chặt chẽ với nhau như ở Nam Cao, nhìn vào văn ông thấy được đời mà nhìn vào đời để thấy được các giá trị từ trang văn của ông.

Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, bút danh Nam Cao được lấy trong tên huyện và tên tổng nơi quê của ông là làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân tỉnh Hà Nam). Ông sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân bình thường, gia đình khá đông con và ông là người con duy nhất được ăn học tử tế. Sau khi học hết bậc Thành chung, năm 1935 ông bắt đầu đi làm kiếm sống, Nam Cao cùng cậu đi vào Sài Gòn nhưng làm được khoảng 3 năm thì bệnh tật khiến ông phải trở về quê và dạy học, viết văn. Dấu mốc quan trọng nhất chính là vào năm 1943 Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó tới lúc hi sinh ông đã tận tụy phục vụ cách mạng và kháng chiến, ông tham gia kháng chiến ở quê nhà rồi vào mặt trận Nam Trung Bộ, sau đó năm 1947 lại lên Việt Bắc tham gia chiến dịch Biên giới năm 1950. Ngày 30-11-1951 khi đang trên đường vào vùng địch ở Liên khu III thì ông bị giặc phục kích và sát hại.

Chính Nam Cao đã từng nói về mình rằng "có cái mặt không chơi được", ấy là vì vẻ ngoài ông lạnh lùng, ít nói nhưng thực ra bên trong nội tâm ông lại vô cùng phong phú, luôn sôi sục. Bản thân Nam Cao luôn đấu tranh với những suy nghĩ của mình để làm sao việc làm và ý nghĩ không phải xấu hổ, thoát ra khỏi sự tầm thường, nhỏ nhen. Nam Cao giàu ân tình với quê hương, sống gần gũi, gắn bó và có tấm lòng đồng cảm với những người nghèo khổ bị khinh miệt, áp bức trong xã hội lúc bấy giờ. Tình cảm ấy của ông được thể hiện rõ qua các tác phẩm như: Chí Phèo, Lão Hạc, những áng văn chan chứa niềm xót thương với kiếp lầm than, thấm đượm tư tưởng nhân đạo và tình thương đồng loại. Con người Nam Cao khi ấy cũng là trí thức nghèo, vừa hiểu nông dân lại vừa thấm thía cuộc sống người trí thức đương thời nên lí tưởng nhân đạo trong ông rất cao cả, cuộc đời ông gói gọn trong sáng tạo nghệ thuật và hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, ông là tấm gương cao đẹp của một nhà văn chân chính mà bao thế hệ nhà văn khác phải noi gương. Vào năm 1996 Nam Cao được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

So với những nhà văn cùng thời với Nam Cao, quan điểm nghệ thuật của ông có phần tiến bộ hơn, có tính tự giác, hệ thống và nhất quán. Đối với Nam Cao nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những thứ tốt đẹp của con người. Khi mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác, ông cũng chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn. Thế nhưng sau đó ông đã nhận ra sự xa lạ của thứ văn chương ấy với thực tại cuộc sống đau khổ, lầm than của con người. Ông cho rằng, nghệ thuật phải gắn bó với đời, nhà văn cần nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống để nói lên sự thật và cả những những nỗi khổ, cùng quẫn của nhân dân. Nam Cao phê phán và không tán thành với loại sáng tác thi vị hóa cuộc sống, chỉ tả được vỏ ngoài của xã hội, quan niệm của ông trong sáng tác phải có tư tưởng nhân đạo là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, nhà văn phải có lương tâm.

Từ chủ nghĩa hiện thực mà ông theo đuổi, Nam Cao đã lựa đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, ông tham gia kháng chiến, vừa tận tụy phục vụ kháng chiến vừa ấp ủ những hoài bão sáng tác. Các đề tài chính của Nam Cao cũng được chia theo giai đoạn lịch sử đó là trước và trong Cách mạng. Trước Cách mạng ông viết nhiều về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân nghèo, trong cách mạng, ông dùng ngòi bút để đấu tranh, ông viết nhiều về đề tài chiến tranh, người lính. Đối với đề tài người trí thức nghèo có các tác phẩm tiêu biểu như: Giăng sáng, Đời thừa, Nước mắt, Cười, tiểu thuyết Sống mòn,... những trí thức trong số các tác phẩm này được Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của họ trong xã hội cũ, từ họ mà đặt ra những triết lí sâu sắc, phê phán xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo đã tàn phá tâm hồn con người, rồi cũng từ đó thể hiện niềm khao khát sống có ích và ý nghĩa. Đối với đề tài người nông dân, các tác phẩm tiêu biểu là: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no, Mua danh, Trẻ con không được ăn thịt chó,... trong đó Chí Phèo là một kiệt tác. Trong đề tài này Nam Cao vẽ tranh về nông thôn Việt Nam chân thực trong cái nghèo đói xơ xác, thê thảm, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, ông không phải bôi nhọ dân nghèo mà là đang cố gắng khẳng định nhân phẩm bản chất tốt đẹp của họ cũng như kết án xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính của họ. Sau này trong kháng chiến, Nam Cao là cây bút tiêu biểu cho văn học kháng chiến chống Pháp với các tác phẩm văn xuôi thời kì đầu như: Nhật kí ở rừng, Đôi mắt. Phong cách nghệ thuật Nam Cao độc đáo, quan tâm tới đời sống tinh thần con người, biệt tài của ông chính là diễn tả và phân tích tâm lí nhân vật rất sắc sảo, từ những việc đời thường lại thể hiện triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống, nghệ thuật.

Có thể nói tác giả Nam Cao vừa là nhà văn hiện thực, vừa là nhà nhân đạo chủ nghĩa, qua các sáng tác của ông ta chợt thấy khắc nghiệt thời gian chẳng tồn tại, càng về sau giá trị sáng tác của ông càng ngời sáng, các bộc lộ ý nghĩa cả về nội dung và nghệ thuật. Thế hệ người đọc của ông mãi nhớ về ông với những nhân vật đã in hằn trong tâm trí, một nhà văn đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà, để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo