“Bài thơ quê hương” của Nguyễn Bính là một bài thơ mà ít người biết đến, thậm chí ngay cả các nhà phê bình cũng ít khi nói về nó, mặc dù tên tuổi của Nguyễn Bính đã nổi danh thi đàn Việt đến tận hôm nay.
Nguyễn Bính viết “Bài thơ quê hương” vào tết Bính Ngọ (1966). Đọc nhiều bài thơ của ông tôi khá ngạc nhiên về sự dài hơi và phong cách kề cà diễn ra ở tác phẩm này. Bài thơ này rất dài, dàn trải, nhiều khổ vỏ ngôn ngữ không trùng, nhưng ý thơ lặp. Đọc nó, nhiều lúc cứ ngỡ không phải thơ ông. Có lẽ vì lý do đó mà không mấy ai biết thi sỹ Nguyễn Bính có bài thơ này giữa các bài thơ nổi tiếng cùng đề tài. Bài thơ cấu tạo hình thức là câu chuyện về quê hương “Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương”, tác giả kể cho người bạn “Trải nghìn dặm” tới thăm Việt Nam. Ấn tượng sâu đậm nhất tôi gặp là những dòng thơ mà Nguyễn viết về mạch nguồn dân tộc. Dường như ông gửi vào đó cả một vốn kiến thức dân gian và khát khao cái khí quyển dân gian nghìn đời ấy. Những khổ thơ này tràn ngập một thế giới cổ tích ca dao.
Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang…
Có cô Tấm náu mình trong quả thị
Có người em may túi đúng ba gang.
Thanh âm của nó trong thơ Nguyễn Bính là cả một không gian chuyện cổ Thạch Sanh. Chàng trai dũng cảm nhân hậu như một biểu tượng văn hóa Việt cổ. Là câu chuyện về Cô Tấm dịu hiền quằn quại hóa thân khẳng định mình chống cái ác. Đó cũng là phẩm chất cao đẹp của con người Việt cổ xa xưa biết tiết chế dục vọng từ bỏ lòng tham “Có người em may túi đúng ba gang”. Câu chuyện cổ tích “Cây khế” hiện diện trọng xã hội xưa như một câu chuyện tiêu biểu, còn câu thơ Nguyễn nói về nó trong một dòng thơ. Rất thú vị khi Nguyễn dùng từ “Đúng”. Đó là một từ biểu thị lý tính. Ở đây diễn tả sự khiêm tốn, về thói không tham phúc lộc trời ban tặng của người em trai khi chim nói “ Ta ăn một quả, ta trả cục vàng/May túi ba gang, mang đi mà đựng”. Nó cũng là bài học Khổng Khâu dạy các đệ tử khi lý giải cái lọ đựng nước vì sao mà đứng vững “Nhiều quá thì đổ, ít quá cũng đổ, nhưng vừa thì đứng”.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.
Vẫn là mạch dân gian chảy, ở đây là những áng ca dao đậm đà ý vị, là những câu tục ngữ sáng lên lý trí Việt, những bài đồng giao con trẻ đêm trăng. Thiên nhiên hòa quyện với cuộc sống con người. Và thiên nhiên như trang sách vĩnh cửu ghi lại trên mình, trong mình những câu chuyện nồng nàn tình yêu chung thủy. Không chỉ có mạch dân gian, hình ảnh dân tộc còn ngời sáng trong những áng văn thơ lấp lánh tình người trong đó. Những câu thơ của Vua Trần sau trận mạc như niềm cảm khái một thuở non sông chinh chiến và niềm tự hào chiến thắng, niềm tin vào bền vững trường tồn.
Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.
….
Thật phi thường. Chấp nhận gian khổ và chấp nhận những thách thức tưởng chừng không thể vượt qua. Cái không thể được người con gái biến thành cái có thể nhờ ở sức mạnh phi vật chất; đó tình yêu phi thường chân thật mà lại mềm mại ý vị:
Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn…”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.
Một không gian Quê hương hiện dậy ngọt ngào với những mảnh tâm hồn quê kiểng nhưng bay bổng tiếng thơ và mênh mông câu hát dân ca:
Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.
Cái hơn của Nguyễn Bính là cách nói thậm xưng “Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát”, lối nói quá này tài tình ở chỗ nó vẫn diễn tả được cái thật. Đó là mạch máu chảy nối đời nối kiếp, là thứ siêu gen di truyền mang tên gọi Việt Nam. Người Việt thích làm thơ mà ngâm ngợi, mà nghĩ suy, vui đùa và chiến đấu…Trong ngôn ngữ giao tiếp, đôi khi trong những bài phát biểu của các chính khách cũng xuất hiện những câu thơ. Đó là tâm hồn Việt, một chút lãng đãng thăng hoa bay ra ngoài hiện thực để tích một thứ năng lượng nào đấy rồi quay về với hiện thực. Phong cách giao tiếp người Việt nó lãng đãng một tý, hồ đồ một tý, bay bổng, để rồi tỉnh táo. Cái chất lãng mạn ấy được cấu thành trong tâm hồn Việt ngay từ trong nôi. Sữa mẹ và dòng sữa ca dao đồng thời nuôi dưỡng thể xác và tâm hồn Việt, một thứ tâm hồn gắn với văn minh lúa nước hiền dịu hòa nhập với thiên nhiên bình dị êm ả; những cánh cò đưa bay lả, những áng mây xanh mây trắng mây vàng và những mùa hoa nở kế tiếp…
Nguyễn Bính có những sự thay đổi trong cách viết sau vụ Nhân văn giai phẩm và Báo Trăm hoa của ông bị giải tán. Ở thời kỳ này ông vẫn có nhiều bài thơ rất hay. Trường hợp những tác phẩm như “Bài thơ quê hương” rất hiểm gặp ở Nguyễn Bính. Tuy nhiên, đọc lại chúng ta vẫn tìm thấy trong đó những mảnh hồn của ông sáng lên, lấp lánh một thứ hồn Việt đậm sắc màu đồng quê, xao xác một bầu trời chuyện cổ, rì rầm một dòng sông ca dao trong tâm thức.