Lời oan giận và lý lẽ của ông ghi thể hiện sự mỏng manh thật cương quyết, nhưng quyến rũ, mạnh mẽ nếu được lên đến thì như thế nào?
Đời vua Lê Thánh Tông có viên sử quan tên Lê Nghĩa. Ông già, người gầy guộc, nhỏ thó. Mái đầu bạc trắng, lưa thưa vài sợi tóc, râu cằm cứng bết lại thành một đám vểnh nhọn lên như cái mũi mác. Chẳng hiểu ông có gia đình vợ con gì không, hay nhà xa kinh thành, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong Hàn lâm viện, làm công việc biên chép.
Chiều đến, khi hoàng hôn xuống, tím ngắt kinh thành, ông ngồi lặng tờ như cái bóng, nhâm nhi chén rượu suông. Những lúc như thế, có cảm tưởng ông già mảnh khảnh, như sắp tan hoà vào không gian bảng lảng, u tịch của chiều hôm... Vào một buổi chiều thu, ông già chép sử một mình cặm cụi trước một trang sách ố vàng đầy bụi bặm.
Dường như tất cả nhãn lực, cùng trí não, tâm hồn ông đều tập trung vào nội một chữ "Trần" hình thành bởi hai chữ Đông và A ghép lại. Cái mẫu tự có cấu trúc kỳ lạ, có thể viết thành một cuốn sách ngõ hầu bổ sung và mở mang thêm kiến văn cho các bậc thức giả vốn đã uyên thâm, lịch duyệt.
Ông làm việc say mê đến nỗi không biết có một người từ trong cung đi ra và đang thẳng bước tới Viện. Khách cũng đã dặng hắng ba lần, kính cẩn chào tới ba lần, nhưng đều không được đáp lại, còn lúc này đã đứng sát ngay trước mặt mà ông già vẫn chưa hay biết. - Kính chào sử quan!
Nghe tiếng chào, ông già giật mình, ngẩng lên. - Tôi là nội quan hầu cận Hoàng thượng. Hoàng thượng sai tôi đến Hàn lâm viện để mượn "Thực lục".
- Thực lục! Lê Nghĩa khẽ kêu lên, ngạc nhiên, không dấu được vẻ sợ sệt, hốt hoảng: - Thực lục là sách sử gia ghi chép các công việc của vua làm hàng ngày, không ai được xem.
Nội quan nói: - Nhưng đây là lệnh vua. Vua sai tôi...
- Vua càng không được tuỳ tiện. Tôi là sử quan trong Viện hàn lâm, không thể không giữ nghiêm quy chế đã ban hành, ông về lựa lời tâu vua như thế. - Lê Nghĩa cắt ngang lời nội quan, giọng dứt khoát. Xem thái độ và lời nói cương quyết của vị sử quan già nua, viên nội quan đành phải lui ra khỏi Viện.
Việc đến đó tưởng là xong. Không ngờ hôm sau đích thân vua Lê Thánh Tông vào Viện tìm gặp Lê Nghĩa: - Hôm qua ta sai nội quan đến hỏi mượn sách, sao nhà ngươi từ chối là nghĩa thế nào? Có phải vì không có tín bài chăng?
- Tâu Hoàng thượng, phải thế mà cũng chẳng phải thế. Việc hệ trọng, quan được vua sai đi làm mà không có tín bài, ai dám tin. Vả lại dẫu Hoàng thượng có trao tín bài cho nội quan thì thần cũng không dám làm việc khinh suất. Lệ đã định...
Không để Lê Nghĩa tâu trình tiếp, vua Thánh Tông đã gạt đi: - Ta biết rồi. Nhà ngươi biết giữ gìn phép nước. Ta khá khen. Nhưng ta chỉ muốn xem qua, không có ý định can thiệp vào những công việc của sử thần thì có hề gì.
- Hoàng thượng là bậc minh quân, từ ngày lên ngôi làm nên bao công nghiệp rỡ ràng được bốn phương hướng về. Ngoài, giữ yên bờ cõi. Trong, dân tình no đủ, văn học chưa thời nào phồn thịnh như bây giờ, khiến cho kẻ sĩ hết thảy đều hớn hở, nức lòng. Thần tin yêu Hoàng thượng nhưng càng tin yêu chúa mình bao nhiêu, các bề tôi càng phải giữ mình, không được một mảy may sai sót.
Vua Thánh Tông căng trán, nhíu mày. Đoạn nhà vua hỏi: - Này Lê Nghĩa! Ta hỏi thực nhé! Sử cũ chép: Trước kia Phòng Huyền Linh làm sử quan. Đường Thái Tông muốn xem Thực lục, Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh thì ai hơn?
Lê Nghĩa kiêu hãnh đáp: - Sự kiện ở cửa Huyền Vũ, Đường Thái Tông giết Kiến Thành và Nguyên Cát, Phòng Huyền Linh chỉ dám chép qua loa mập mờ, chung chung là "sự kiện ngày mồng 4 tháng 6" thôi. Thế mà khi Đường Thái Tông xem, bắt phải viết lại cho rõ ràng. Như vậy thì thần cho rằng Huyền Linh cũng vẫn chưa phải là hiền thần!
- Ta hiểu rồi. Như vậy là nhà ngươi tự coi mình còn hơn Huyền Linh, còn ta thì không được như Đường Thái Tông. Ta không thể bắt bẻ được những điều ông nói. Nhưng sao ông vẫn không hiểu được thiện ý của ta. Ta chỉ cốt xem lại những ghi chép hàng ngày của các sử gia để còn biết trước đây có lỗi gì để còn sửa được.
Lê Nghĩa thấy vua đã nhận ra lẽ phải, nhưng vì vẫn chưa vượt qua được thói thường tò mò, nên cố nài thêm đó thôi. Viên sử quan già dịu giọng tâu lên:
- Muôn tâu chúa thượng! Thánh chúa mà muốn sửa bỏ lỗi lầm, đó là phúc lớn vô hạn của xã tắc. Ngoài ra nếu bệ hạ suốt ngày chỉ lo điều hay thôi thì cần gì phải để mắt đến quốc sử. Còn nếu như bệ hạ quyết xem thì cho phép thần được ghi một câu: "Ngày... tháng... năm... này, đức vua vào Hàn Lâm viện đòi Lê Nghĩa cho xem Thực lục. Sử quan họ Lê quyết một lòng bảo vệ phép nước nhưng không được. Đành phải tuân theo".
Lê Thánh Tông lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vua nhìn viên sử quan già nua mảnh khảnh bé như cái tăm, bộ râu cằm cứng đờ vểnh cong lên ra tuồng cao ngạo, mà vừa kính vừa ghét. ----- Nội dung dịch tự động từ ảnh ----- 1. (0,5 điểm). Bối cảnh câu truyền trên diễn ra vào thời lịch sử nào của nước ta? Câu 2 (0,5 điểm). Truyền kể về những nhân vật lịch sử nào? Câu 3 (1,0 điểm). Trong phẩm chất nào nên/cần có ở một người lãnh đạo? Theo em, phẩm chất nào nên/cần có ở một sĩ quan/sĩ gia? Câu 4 (1,0 điểm). Đối với những nhân vật nào đó? Qua đó, em hãy nêu cách nhìn nhận. Câu 5 (1,0 điểm). Mục đích của vua Lê Thành Tông muốn mượn xem cuốn "Thực lục" là gì? Trước cơ của hắn cho tới nay. Câu 6 (1,0 điểm). Theo em, vì sao vua Lê Thành Tông lại đối xử đặc biệt "vừa kính vừa ghét" trước hành động và thái độ của viên quan Lê Nghĩa ở phần cuối truyện. Qua đó, em hiểu gì về con người cua vua Lê Thành Tông? Câu 7 (1,0 điểm). Lời oan giận và lý lẽ của ông ghi thể hiện sự mỏng manh thật cương quyết, nhưng quyến rũ, mạnh mẽ nếu được lên đến thì như thế nào?
PHẦN II: TẠO LẬP VĂN BẢN (4,0 ĐIỂM) Viết đoạn văn (khoảng 10 - 12 câu), nếu cảm nhận của em về một nhân vật em thấy ấn tượng trong truyện "Đoá hoa đất" ở trong viện Hàn lâm của Lê Văn, trong đó có sử dụng phép thế để liên kết câu (gạch chân và loại khác).
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Câu 1: Bối cảnh câu truyền trên diễn ra vào thời vua Lê Thánh Tông của triều đại nhà Hậu Lê ở Việt Nam.
Câu 2: Truyền kể về hai nhân vật lịch sử là vua Lê Thánh Tông và viên sử quan Lê Nghĩa.
Câu 3: Trong phẩm chất lãnh đạo, một người lãnh đạo nên có sự sáng suốt, khôn ngoan, và lòng nhân ái. Đối với một sĩ quan/sĩ gia, phẩm chất cần thiết bao gồm tính chính trực, trung thực, và tinh thần trách nhiệm. Sĩ quan/sĩ gia nên luôn giữ gìn đạo đức và tôn trọng nguyên tắc công việc.
Câu 4: Đối với những nhân vật như Lê Nghĩa, ta thấy họ giữ vững nguyên tắc và trách nhiệm dù gặp áp lực từ quyền lực cao nhất. Điều này thể hiện sự trung thành với công việc và quy chế, nhưng cũng có thể dẫn đến xung đột với những yêu cầu từ cấp trên. Nhìn nhận này cho thấy sự quan trọng của việc giữ vững nguyên tắc nhưng cũng cần linh hoạt trong cách xử lý tình huống.
Câu 5: Mục đích của vua Lê Thánh Tông khi mượn cuốn "Thực lục" là để xem lại các ghi chép hàng ngày của các sử gia nhằm kiểm tra và sửa chữa những lỗi lầm trước đây. Ông muốn đảm bảo việc sử sách chính xác và đáng tin cậy.
Câu 6: Vua Lê Thánh Tông cảm thấy "vừa kính vừa ghét" vì Lê Nghĩa tuy thể hiện sự kính trọng với quy chế nhưng lại cương quyết không làm theo yêu cầu của vua. Điều này làm vua cảm thấy vừa nể phục tính trung thực và bảo vệ nguyên tắc của Lê Nghĩa, vừa cảm thấy khó chịu vì sự cứng nhắc và thái độ không linh hoạt của ông. Điều này cho thấy vua Lê Thánh Tông là người cương quyết nhưng cũng biết đánh giá sự kiên định và tính nguyên tắc của người khác.
Câu 7: Lời oan giận và lý lẽ của Lê Nghĩa thể hiện sự kiên định và bảo vệ quy chế một cách cứng rắn, song cũng có sức thuyết phục mạnh mẽ. Nếu được thực hiện một cách hợp lý và phù hợp, cách tiếp cận này có thể nâng cao tính chính xác và minh bạch trong quản lý và ghi chép lịch sử.
PHẦN II
Trong truyện "Đoá hoa đất", nhân vật Lê Nghĩa là một hình mẫu ấn tượng với sự kiên trì và tận tâm. Ông là một viên sử quan già, gầy guộc nhưng luôn giữ vững nguyên tắc trong công việc. Dù có áp lực từ vua Lê Thánh Tông, nhưng ông không bao giờ làm sai quy chế. Khi vua yêu cầu xem cuốn "Thực lục", Lê Nghĩa đã từ chối vì ông muốn bảo vệ sự chính xác và nghiêm túc của sử sách. Mặc dù vua có lý do chính đáng, nhưng Lê Nghĩa vẫn cứng rắn trong quan điểm của mình. Vì ông tin rằng việc tuân thủ quy định là rất quan trọng, ông yêu cầu vua ghi lại lý do của sự từ chối. Tuy nhiên, sự kiên quyết này cũng cho thấy Lê Nghĩa là một người tận tâm và chính trực. Khi xem xét hành động của ông, ta cảm nhận được lòng yêu nghề và sự tôn trọng quy chế, đồng thời cũng thấy được sự căng thẳng giữa việc giữ vững nguyên tắc và sự linh hoạt trong quản lý công việc.
Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời
(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi. Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ