Nam Quốc Sơn Hà là một trong những kiệt tác văn chương của văn học thời Lý – Trần. Đó là tác phẩm kết tinh tinh thần thời đại và cảm xúc của muôn người. Vì vậy, nó thể hiện tinh thần độc lập, tinh thần anh hùng và khát vọng cao cả của dân tộc trong buổi đầu xây dựng nhà nước phong kiến độc lập.
Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thành:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch)
Tương truyền kể rằng, trong cuộc kháng chiến của nhà Lý với nhà Tống, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng vĩ đại của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù được thần hay được con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và tinh thần của Đại Việt.
Tư tưởng bảo vệ độc lập và kiên quyết đấu tranh chống giặc ngoại xâm được thể hiện trực tiếp thông qua lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Bài thơ mở đầu bằng lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền đất nước.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Câu thơ bảy tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhịp nhàng, “Nam Quốc Sơn Hà – Nam Đế cư”. Đặc biệt, cách sử dụng ngôn từ của tác giả “diễn đạt” rất tốt những ý tưởng, cảm xúc đầy chất thơ. Hai từ Nam Quốc và Nam Đế có thể coi là con mắt (nhãn tự) của câu thơ và của toàn bộ bài thơ. Trong hệ tư tưởng của các nhà cai trị phong kiến Trung Quốc cổ đại, chỉ có hoàng đế phương bắc, không có hoàng đế phương nam. Hoàng đế Trung Quốc là vị hoàng đế duy nhất trên thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Cho nên khi chúng xâm lược nước Nam và áp đặt cai trị, chúng đã trắng trợn biến nước ta thành một quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành được hôm nay đã thấm không ít máu của cha ông ta trong hơn một nghìn năm. Và hiện nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe dọa bởi hệ tư tưởng ngông cuồng kia.
Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn ngữ thơ. Nam Quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà còn là thể hiện vị thế của nước Nam ta. Đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng độc lập, sánh vai ngang hàng với các cường quốc phía bắc như Trung Quốc. Ngoài ra, đất nước còn có chủ quyền và có một vị hoàng đế (Nam Đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì với hoàng đế Trung Hoa, được đấng tối cao phong tặng danh hiệu, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là điều hiển nhiên. Không ai có quyền phủ nhận điều đó sao? Bởi vì ranh giới núi sông, biên giới quốc gia là do Trời định đoạt chứ không phải do ý chí chủ quan của một hay một số ít người. Ai có thể thay đổi ranh giới lãnh thổ của mỗi quốc gia được ghi trong Thiên Thư?
Tác giả bài thơ đã đưa ra những lập luận rất xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, chân lý thiêng liêng và cao quý về sự tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Thật là một tinh thần kiên cường! Thay mặt toàn thể dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh báo quân xâm lược: “Xâm phạm vùng đất này là vi phạm Thiên thư”. Làm sao trời đất có thể dung tha? Mặt khác, chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là vi phạm chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, ý chí độc lập kiên cường, vậy thì, sự thất bại là điều khó tránh khỏi.
Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế. Những cảm xúc thơ mãnh liệt đến nỗi tạo nên chất trữ tình chính luận – đặc trưng của thơ ca thời Lí – Trần, và khiến người đọc phải rơi nước mắt.
Và hàng nghìn năm sau, bài thơ này vẫn tiếp tục vang vọng như linh hồn thiêng liêng của núi sông.
2. Đoạn văn nêu cảm nhận của em về bài thơ Nam Quốc sơn hà điểm cao:Lý Thường Kiệt là vị danh tướng nổi tiếng thời Lý. Chiến công của ông gắn liền với cuộc chiến chống quân Tống trên sông Như Nguyệt. Khi nhân dân ta nói về ông, họ không chỉ nhớ đến những chiến công lẫy lừng của ông mà còn nhớ đến người rất có tài năng văn chương. Và khi nhắc đến tài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến tuyên ngôn độc lập bằng thơ của nước Đại Việt ta. Tác phẩm là lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta từ trước đến nay.
Tác phẩm bắt đầu bằng một lời tuyên bố hùng hồn với kẻ thù.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
(núi sông nước Nam vua ở)
Câu thơ đầu tiên đã khẳng định một chân lý bất di bất dịch rằng “sông núi nước Nam, vua Nam ở”, sông núi nước Nam là phải vua Nam ở. Đây là sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận. Trong nguyên tác, từ “cư” không chỉ có nghĩa là ở mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là vua Nam có quyền làm chủ trên vùng đất nước Nam này. Tác giả muốn nói với người đọc rằng nước Nam đã có vua, mà ngày xưa vua là người đại diện tối cao cho đất nước. Đất nước đã có vua. Nói cách khác, đất nước này có độc lập, chủ quyền, mọi người trong nước Nam phải có trách nhiệm cùng với Nhà vua để giữ vững chủ quyền đó. Mặt khác, ranh giới phía Nam cũng được ghi rõ trong thiên thư.
“Tiệt nhiên nhân định tại thiên thư”
(vằng vặc sách trời chia xứ xở)
Đây là chân lí không thể thay đổi được. Đây có thể nói là lời tuyên bố chủ quyền, độc lập của nước Nam, là sự khẳng định về niềm tin và ý chí tinh thần độc lập của nước Nam. Chính vì niềm tin này mà nhân dân ta đứng vững mỗi khi giặc ngoại xâm xâm lược. Tuy nhiên, không hiểu rõ lí lẽ đó, quân xâm lược nhà Tống lại ý mạnh đưa quân sang gây chiến tranh phi nghĩa, khiến cho nhân dân ta lâm vào cảnh điêu tàn, nhân dân phải sống một cuộc đời lầm than càng hun đúc tinh thần ý chí quật cường quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền cho dân tộc. Dân tộc ta vốn là dân tộc yêu chuộng hoà bình, nhưng trước cuộc chiến tranh phi nghĩa chúng đang muốn xâm phạm chủ quyền đã được sách trời quy định ấy.
“Giặc giữ cớ sao phạm đến đây”
(như hà nghịch lỗ sao xâm phạm)
Lời tuyên bố thật mạnh mẽ rằng: kẻ thù chớ có xâm phạm. Nếu chúng bay dám coi thường cả Đấng Tối Cao là “trời”, coi thường cả một dân tộc, phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc, xâm phạm đến sông núi nước Nam sẽ dẫn đến thất bại nặng nề, nhơ nhuốc cho đến ngàn đời. Sông núi nước Nam có lẽ là lời tuyên ngôn mạnh mẽ và hùng hồn nhất từ trước đến nay về chủ quyền của dân tộc.
Với ý nghĩa này, “Sông núi nước Nam” xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta.
Lời tuyên ngôn này kết tinh tất cả tâm tư, tình cảm, khát vọng, ý chí của toàn thể nhân dân Đại Việt, những con người hàng nghìn năm nay đã mãi mãi xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự xâm lược dã man và tàn bạo của kẻ thù rõ ràng đã vi phạm nguyên tắc trời ban. Hành động này là phi nghĩa nên chắc chắn sẽ phải chuốc lấy bại vong. Nếu hai câu thơ đầu là lời khẳng định chân lý về độc lập, chủ quyền thì đây là lời khẳng định niềm tin chiến thắng. Có niềm tin đó bởi dân tộc ta có tinh thần đoàn kết và truyền thống yêu nước lâu dài.
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được coi là lời tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, khẳng định chủ quyền của dân tộc và củng cố quyết tâm bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lược. Tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc thể hiện trong bài thơ này đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta và sống với biết bao thế hệ trong suốt lịch sử.
Nam Quốc Sơn Hà là một bài thơ bảy câu ngắn gọn, xúc tích. Nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ca ngợi lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đồng thời thể hiện ý chí, sức mạnh và sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam.