LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Sau khi đọc xong bài thơ "Tự Tình" và "Thương vợ", anh/chị hãy phát biểu cảm nghĩ về người phụ nữ trong xã hội phong kiến (200 chữ/ không chép mạng)

Sau khi đọc xong bài thơ "Tự Tình" và "Thương vợ", anh/chị hãy phát biểu cảm nghĩ về người phụ nữ trong xã hội phong kiến (200 chữ/ không chép mạng)

3 trả lời
Hỏi chi tiết
498
1
0
Lương Phú Trọng
04/08/2020 12:18:11
+5đ tặng

Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự tình” (II) và Tú Xương với “Thương vợ”.

Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền hành gì trong gia đình.

Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể, chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác, bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. “Tự tình” (II) nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài viết bằng chữ Nôm. Đó là sự đau khổ vì không là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào lòng người . Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn là  cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng, gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, không có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với “nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người rất mạnh mẽ, bà không cam chịu và muốn thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa tròn” lại còn “bóng xế”. Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến bao giờ người  mới có được tình yêu cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mông, hoang vắng, muốn thoát khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình.

Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhô lên ở lòng sông. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú. “Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn của bà Tú được ông Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cò” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cò “lặn lội” trong một khoảng không gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Cảnh bươn trải, chen chúc nhau của những người buôn bán rất khó khăn. “Buổi đò đông” đâu có giống như “khi quãng vắng”. Nó không chỉ có những lời cãi cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú vẫn đi trên chuyến đò đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đông bà Tú cũng thui thủi một “thân cò”.

     Tuy rằng số phận dằng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được hiện diện.

Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”. Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ. “Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vòng quẩn quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình yêu trọn vẹn.

Dù có vất vả, đau xót, chán chườm đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có phẩm chất đẹp đẽ. Không chỉ vẻ bề ngoài mà còn cả bên trong. Đó là lòng yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng vì con. “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm “một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải nuôi thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. đảm đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của ông để trong ấm ngoài êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam?

Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hoàn cảnh. Nhưng trong cuộc thoát thân họ còn cô đơn quá, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ. Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.

Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ không còn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù hoàn cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta luôn tự hào về người phụ nữ Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Lương Phú Trọng
04/08/2020 12:19:28
+4đ tặng

gười phụ nữ trong xã hội phong kiến từ xưa luôn phải chịu số phận vô cùng bất hạnh, cực khổ. Họ có vẻ đẹp bên ngoài và cả phẩm chất đáng quý bên trong nhưng do hủ tục của xã hội phong kiến đã đẩy họ xuống cuộc sống cùng cực. Họ không biết ngỏ cùng ai bởi tiếng nói của họ nào có giá trị, chỉ có thể than tiếng khóc của mình và tác giả dân gian đã có những bài ca dao than thân.

Họ ý thức được vẻ đẹp của mình nhưng lại có số phận long đong, phụ thuộc vào người đàn ông:

" Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"

Mở đầu bài ca dao với mô tip "Thân em" cho ta thấy được thân phận nhỏ bé của người phụ nữ. "Thân em" mở đầu cho lời than thân trách phận của người phụ nữ. Họ đang sống trong xã hội chịu nhiều thiệt thòi dù họ cũng là một cá nhân trong cộng đồng đó. Tác giả dân gian cũng ngợi ca vẻ đẹp của họ trước tiên " như dải lụa đào". Tác giả đã sử dụng phép so sánh đặc sắc. So sánh vẻ đẹp của người phụ nữ như dải lụa mong manh, đẹp đẽ. Dải lụa đào gợi lên vẻ đẹp yêu kiều, trong trắng, nhẹ nhàng, tinh tế của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ có một vẻ đẹp vậy đáng lẽ phải được nâng niu, trân trọng và sống cuộc sống hạnh phúc nhưng không, cuộc sống của họ lại vô cùng bất hạnh: " Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai". Tấm lụa đào đó bị mang ra chợ bán để kẻ mua, người bán mặc cả, không biết sẽ rơi vào tay ai. Kẻ đó có thực sự biết đến giá trị của tấm lụa ấy không? Người phụ nữ cũng vậy, họ không quyết định được số phận của mình mà " Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Họ bị phụ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông trong gia đình. Hay không thơ của Hồ Xuân Hương có câu "Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn". Chính vì bị phụ thuộc, không có tiếng nói trong gia đình mà số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa thật đáng thương!

 

Bài văn Cảm nhận về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số bài ca dao than thân tiêu biểu

Hình ảnh người phụ nữ bé nhỏ bị phụ thuộc còn thể hiện ở bài ca dao:

" Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày"

Thân phận người phụ nữ được tác giả dân gian ví như " hạt mưa sa". Hạt mưa sa rơi xuống nếu may mắn thì "hạt vào đài các" có nghĩa là sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có được hưởng cuộc sống sung sướng rồi được gả cho nhà giàu có. Họ không phải nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà chỉ hưởng thụ. Nhưng bất hạnh hơn là "hạt ra ruộng cày" nghĩa là sống cuộc sống bần hàn, phải lo đến cái ăn cái mặc và hàng ngày kiếm đủ ăn, đủ mặc đã là hạnh phúc. Họ phải lao động vất vả, cực khổ mới có thể sống được. Chúng ta thấy rằng, cùng viết về người phụ nữ nhưng số phận của họ có thể thay đổi. Điểm chung giữa họ là sự phụ thuộc, là định kiến của xã hội, là hủ tục lạc hậu của xã hội phong kiến.

Trong ca dao dân ca, hình ảnh con cò cũng tượng trưng cho người phụ nữ. Đó là hình ảnh người vợ - người nông dân vất vả nuôi chồng:

" Con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"

Người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó lặn lội kiếm miếng cơm manh ao. Từ " lặn lội" để thể hiện nỗi vất vả, khó nhọc. Gánh gạo nuôi chồng nhưng họ không hề oán giận mà cam chịu " tiếng khóc nỉ non". Người phụ nữ lẽ ra cần có chỗ dựa là người chồng nhưng giờ đây họ phải làm lụng để nuôi chồng, nuôi con. Những câu ca dao này khiến ta nhớ đến những câu thơ trong bài " Thương vợ" của Tế Xương: " Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Èo xèo mặt nước buổi đò đông". Người phụ nữ họ phải thật sự yêu chồng, yêu con và có đức hi sinh mới có thể chịu được sự vất vả khó nhọc như vậy.

Nói tóm lại, ca dao than thân đã diễn tả được tiếng than của người phụ nữ về số phận của mình trong xã hội phong kiến. Ở xã hội ấy, người phụ nữ họ có vẻ đẹp, có phẩm chất nhưng số phận quá bạc bẽo. Tác giả dân gian đã lên tiếng giúp họ nhằm tố cáo xã hội ấy và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc.

1
0
Lương Phú Trọng
04/08/2020 12:21:13
+3đ tặng

Trần Tế Xương (1870 – 1907) là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của nên thơ Việt Nam thế kỉ XIX. Cuộc đời ông ngắn ngủi với nhiều gian truân, vất vả nhưng đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Thơ trào phúng và trữ tình của ông đều xuất phát từ tấm lòng gắng bó sâu nặng với dân tộc, đất nước; có cống hiến quan trọng về phương diện nghệ thuật cho thơ ca dân tộc. Thương vợ là bài thơ tiêu biểu phong cách nghệ thuật của Tú Xương. Bài thơ thể hiện tình thương yêu, quý trọng vợ của Tú Xương bộc lộ qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian truân và những đức tính cao đẹp của bà Tú, đồng thời thể hiện những tâm sự và vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ.

Trần Tế Xương có gia cảnh nghèo khó lại đông con. Tuy là người có tài nhưng con đường khoa cử của Tú Xương hết sức lận đận. Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần tất cả, mất trọn 24 năm đèn sách miệt mài. Dánh hết tâm huyết cho thi cử chỉ mong đỗ đạt để đạt lấy công danh, xứng mặt với dời, vợ con được hưởng phú quý. Thế nhưng, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông lại nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Biết bao cuộc đổi thay đã làm ông đánh mất hết cơ hội này đến cơ hội khác.  Bởi thế, ông tài cao chí lớn nhưng đành ôm hận nghìn thu.

Càng gian nan, ông càng thấu tận nỗi khổ ở đời. Bà Tú, người vợ thủy chung ông, trong chừng ấy năm chưa từng than vãn một lời. Càng ngẫm nghĩ, ông càng thấy thuwong hơn, thấy mình bất tài mà lòng dạ đau như cắt. Thương vợ là một cách trần tình của nhà thơ vừa đáng thương vừa hết sức chân thực.

Mở đầu bài thơ là lời kể về công việc làm ăn và gánh nặng gia đình mà bà Tú đảm đương:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Thời gian bà Tú phải làm việc là “quanh năm”. Đó là khoảng thời gian liên tục, ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, bà Tú vất vả với công việc buôn bán, chăm chỉ làm lụng, không ngơi nghỉ. Không gian là “mom sông”. Đó là phần đất ở bờ nhô ra phía lòng sông, rất dễ sụp, dễ lở, đầy bất trắc, hết sức chênh vênh, nguy hiểm. Thời gian, không gian tương phản (thơi gian kéo dài, không gian nhỏ hẹp) nhưng tương hợp trong mục đích giới thiệu khái quát công việc làm ăn vất vả của bà Tú.

Thế nhưng, đến câu thơ thứ hai mới hiện ra nỗi vất nả nhọc nhằn lớn nhất của bà: Nuôi đủ năm con với một chồng.  “Nuôi đủ” là không sót người nào, cả chồng và con; không để chồng con thiếu thốn điều gì. Cách dùng từ chính xác, độc đáo của nhà thơ thể hiện sự khéo léo, đảm đang của bà Tú. Đó như là một lời khen ngợi, tôn vinh công trạng của bà Tú đối với gia đình. Đó là sự khắc cốt ghi tâm ơn nghĩa của vợ mà nhà thơ đã mạnh dạn nói ra.

Hình ảnh “năm con với một chồng” là cách sắp xếp thật hóm hỉnh và tự hào của Tú Xương. một đầu là “năm con”, một đầu là “một chồng”. Cả hai đầu làm nên gánh nặng cuộc đời mà bà Tú suốt đời gánh vác lấy. Cái hóm hỉnh đáng quý ở đây đó là Tú Xương đã đặt mình ở một vế trái ngang quá. Bà tú nuôi năm con là điều thường tình. Còn Tú Xương cớ gì bà phải nuôi. Theo lẽ thì Tú Xương mới là người nuôi dưỡng năm con và bà Tú mới phải. Chính nghịch lí ấy thể hiện sự đảm đang của bà tú, đồng thời đây cũng là sự tri ân của tác giả với vợ.

Đến hai câu thực, tác giả đặc tả cảnh làm ăn vất vả để mưu sinh của bà tú với nỗi niềm xót xa vô hạn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Nhà thơ vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian. Từ hình ảnh con cò trong ca dao, nhà thơ mượn lấy để nói về bà Tú: “thân cò”.  Hình ảnh giàu sức gợi tả (hình ảnh bà Tú gầy gò, ốm yếu), gợi cảm (cảm xúc xót thương), nhấn mạnh nỗi vất vả và gian truân của bà Tú, gợi nổi đau thân phận. Cụm từ “khi quãng vắng” vừa gợi không gian vừa gợi thòi gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. lại thêm ở “buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc. Hai từ láy tượng hình, tượng thanh “lặn lội”, “eo sèo” được đưa lên đầu câu nhằm nhấn mạnh hình ảnh bà Tú tần tảo, bôn ba đi khắp nơi để buôn bán.

Hai câu thơ thể hiện công việc cực nhọc, vất vả ở những nơi nguy hiểm, khó khan của bà Tú. Tú Xương cảm nhận được và ái ngại, lo lắng và xót xa trước hoàn cảnh công việc của bà Tú.

Bình luận về cảnh đời oái ăm mà bà Tú phải chịu (hai câu luận):

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công.

 “Một duyên hai nợ” là cách nói tăng tiến, tách từ. Đó là cách nói chua xót khi niềm vui thì ít mà vất vả lận đận lại nhiều. Bà Tú lấy chồng lẽ ra phải được chồng nuôi nhưng thực tế bà phải nuôi chồng, nuôi con – hai gánh nợ trên vai. Hình ảnh “nắng”, “mưa” chỉ sự vất vả; “năm”, “mười” là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều được tách ra tạo nên một thành ngữ đan chéo “năm nắng mười mưa” . Qua thành ngữ ta thấy  khó khăn cứ chồng chất lên trên vai bà Tú. Thế mà bà Tú vẫn cứ “âu đành phận” và nào “dám quản công”. Vất vả, cực khổ nhưng bà Tú chấp nhận, không oán than, kêu ca, hết lòng vì chồng vì con. Bà Tú là hiện thân cho vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Tiếng chửi đời, chửi mình của Tú Xương (hai câu kết)

“Thói đời” chính là cái quan niệm, cái nề nếp đáng chê trách nhưng mặc nhiên được công nhận, chấp nhận. Đó là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú và những người phụ nữ khác phải vất vả. Cái thới đời ấy tưởng rằng sẽ mang đến điều tốt đẹp cho người phụ nữ nhưng nào có phải, nó “ăn ở bạc” lắm. Chửi thói đời đen bạc. Nó ngăn cản ông Tú yêu thương vợ một cách thiết thực hơn. Những gái trị thực trong thi cử bị đảo lộn khiến ông sự nghiệp dở dang, tăng thêm gánh nặng cho vợ.

Thương vợ rồi nghĩ đến mình, thấy mình cũng bạc bẽo, “hững hờ” với vợ lắm thay. Tú Xương tự trách mình không chia sẻ một cách thiết thực hơn, “có cũng như không”. Tuy ông thấy mình vô trách nhiệm với vợ nhưng ông tự nhận thiếu sót ấy một cách trung thực, thẳng thắn. Đằng sau tiếng chửi là một tấm lòng yêu thương vợ sâu sắc, một tâm trạng phẫn uất, chất chứa nỗi đau của Tú Xương.

Không một chút dụng công, cũng không có nhiều mĩ từ khi đề cao công trạng bà Tú, Tú Xương đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian, gắn kết hình tượng với không gian quen thuộc của nó. Tú Xương cũng đã rất thành công khi kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng.

Bằng nghệ thuật đảo ngữ và phép đối, Tú Xương đã làm nổi bậc hình tượng bà Tú trên nền cảnh vật buồn tẻ, cực nhọc, đơn độc. Hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, thương yêu, nhân hậu vị tha, lặng lẽ hi sinh vì chồng con. Phẩm chất của bà Tú tiêu biểu cho vẻ đẹp của người vợ trong truyền thống Việt Nam.

Nhìn hình ảnh bà Tú đi về, ta ngỡ như nhìn thấy cuộc đời người phụ nữ Việt Nam bước ra từ trang thơ rồi lại ẩn chìm sau đó. Ta nghe như đâu đây tiếng khóc thầm thổn thức. Không phải tiếng khố của bà Tú vì phụ nữ xưa nay vốn rất giỏi cam chịu. Có lẽ, đó là tiếng khóc cảm thương của ông Tú, tiếng khốc của muôn vạn con người cảm thương cho cuộc đời nhỏ bé, bất hạnh, khổ đau của người phụ nữ Việt nam trong mấy nghìn năm qua.

Hình ảnh Tú Xương, người chồng, người cha, cũng được thể hiện qua sự thấu hiểu, thương yêu, quý trọng, cảm phục, tri ân dành cho vợ và những lời tự trào, tự trách bản thân thể hiện trách nhiệm của nhà thơ với gia đình, thời thế. Sự cảm thông ấy làm nên vẻ đẹp nhân cách cao cả của Tú Xương.

Từ ngữ bài thơ giản dị mà tinh tế, giàu sức biểu cảm. Nhà thơ vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian. Nghệ thuật ấy vừa thể hiện chân thành tấm lòng thương vợ của tác giả vừa tạo nên sự đồng cảm sâu sắc của người đọc, làm nên giá trị của tác phẩm này.

Bài thơ không chi là tình cảm chân thành của nhà thơ đối với vợ, không chi là thái độ trào lộng về sự vô tích sự của mình mà nó còn mang ý nghĩa xã hội, thể hiện một cách nhìn, thái độ cảm thông đổi với thân phận người phụ nữ. Vì vậy bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc.

Với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc động, chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh. Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình của Trần Tế Xương: cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư