LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ em và người lớn tuổi

nêu nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ em và người lớn tuổi

3 trả lời
Hỏi chi tiết
493
1
1
Snwn
14/01/2021 21:46:52
+5đ tặng
Trẻ em
Năng lượng
Năng lượng cần đủ cho hoạt động cơ thể của trẻ và để tích luỹ, giúp thúc đẩy sự lớn lên của các tổ chức. ở lứa tuổi này tiêu hao năng lượng của trẻ lớn do trẻ chơi đùa, đi lại chạy nhảy nhiều. Nhu cầu năng lượng ở lứa tuổi này là 110 Kcal/kg cân nặng, ước chừng trẻ nặng khoảng 9 - 13 kg do đó năng lượng cung cấp là 900 - 1300 Kcal. Năng lượng cần được cung cấp đủ qua bữa ăn của trẻ gồm có: chủ yếu là chất bột như bột, cháo, cơm nát; ngoài ra còn có chất đạm, chất béo. Tỷ lệ giữa các thành phần sinh năng lượng nên là: đạm 15%, béo 20%, đường bột 65%.
 
Chất đạm
Chất đạm rất cần cho sự phát triển cơ thể trẻ, đặc biệt là các tế bào não. Với trẻ nhỏ, cần ưu tiên các loại đạm động vật như: thịt, sữa, trứng, cá, tôm... vì chúng có giá trị cao, có đủ các chất cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ, ngoài ra còn giúp cho cơ thể trẻ khỏe mạnh, tăng sức chống đỡ với bệnh tật. Lượng đạm động vật trong khẩu phần ăn của trẻ nên đạt từ 50 - 60%. Tuy nhiên, nếu phối hợp tốt đạm động vật với đạm thực vật (đậu đỗ, vừng, lạc... ) sẽ tạo nên sự cân đối giúp hấp thu và sử dụng đạm tốt hơn. Nhu cầu chất đạm của trẻ từ 1 - 3 tuổi là 28 g/ngày. Khi chế độ ăn thiếu đạm sẽ làm cho trẻ chậm lớn, kém thông minh, nhưng nếu cho trẻ ăn quá nhiều đạm cũng không tốt vì gây gánh nặng cho gan, thận. Mặt khác, trong quá trình tiêu hóa, chất đạm tạo ra nhiều sản phẩm gây thối rữa, độc hại. Trong bữa ăn của trẻ chất đạm chỉ phát huy tác dụng cao khi có đủ năng lượng. Nếu khẩu phần ăn đủ đạm nhưng thiếu năng lượng trẻ vẫn có thể bị suy dinh dưỡng.
 
Chất béo
Dầu mỡ vừa cung cấp năng lượng cao, làm tăng cảm giác ngon miệng, lại giúp trẻ hấp thu và sử dụng tốt các vitamin tan trong chất béo như vitamin A, D, E, K... rất cần cho trẻ. Mỗi bát bột, bát cháo, ngoài các thành phần khác (gạo, thịt, rau... ), cần cho thêm 1 - 2 thìa cà phê mỡ hoặc dầu. Mỡ lợn, mỡ gà rất tốt cho trẻ vì trong thành phần các loại mỡ đó có các chất rất cần thiết cho quá trình phát triển của trẻ. Nếu trẻ đã ăn cơm thì nên cho mỡ hoặc dầu vào xào, rán, kho với thức ăn.
 
Các chất khoáng
Các chất khoáng rất cần cho sự tạo xương, tạo răng, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh lý của cơ thể. Ở lứa tuổi này canxi và phốt pho cần được chú ý để cung cấp đủ cho trẻ, hằng ngày trẻ cần 400 - 500 mg canxi. Canxi có nhiều trong sữa và các loại tôm, cua, ốc, trai... Phốt pho có nhiều trong các loại lương thực, ngũ cốc. Cần có một tỷ lệ thích hợp giữa canxi và phốt pho mới giúp trẻ hấp thu và sử dụng được hai loại khoáng chất này. Tỷ lệ tốt nhất giữa canxi/phốt pho = 1/1,5. Ngoài việc ăn uống đủ, thỉnh thoảng cần cho trẻ ra ngoài tắm nắng tạo điều kiện cho vitamin D hoạt động, giúp cơ thể chuyển hoá tốt canxi và phốtpho. Chất sắt rất cần cho sự tạo máu, sắt còn tham gia vào thành phần nhiều men quan trọng trong cơ thể. Mỗi ngày trẻ cần được cung cấp 6 - 7 mg sắt qua thức ăn. Nguồn sắt tốt có trong thức ăn động vật là các nội tạng: tim, gan, bầu dục. Nguồn sắt tốt có trong thức ăn thực vật là đậu đỗ và các loại rau có màu xanh sẫm. Sắt có trong thức ăn động vật hấp thu tốt hơn trong thức ăn thực vật nhưng trong rau quả lại có nhiều vitamin C giúp cơ thể hấp thu và sử dụng sắt có hiệu quả hơn. Ưu tiên nguồn thức ăn động vật, phối hợp với các đậu đỗ và rau quả nhằm đảm bảo đủ sắt cho cơ thể.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
Nguyễn Anh Minh
14/01/2021 21:50:06
+4đ tặng
Nhu cầu dinh dưỡng ở trẻ rất lớn. Trẻ càng nhỏ nhu cầu càng cao. Trong năm đầu tiên trẻ phát triển rất nhanh, sau sinh 6 tháng trung bình cân nặng đã tăng gấp đôi, đến 12 tháng cân nặng tăng gấp ba so với cân nặng lúc sinh, sau đó tốc độ tăng chậm dần cho tới trưởng thành. Để đáp ứng tốc độ tăng năm đầu nhu cầu dinh dưỡng cũng như năng lượng đều cao.

1.2.1. Nhu cầu năng lượng

Năng lượng cung cấp cho trẻ được phân bố như sau: 50% đáp ứng nhu cầu chuyển hóa cơ bản và 25% cho hoạt động và 25% cho phát triển (tăng cân trung bình từ 15-35g/ngày). Trẻ dưới 1 tuổi có tỷ số giữa bề mặt da và cân nặng lớn hơn người trưởng thành nên năng lượng tiêu thụ để giữ cho cơ thể ấm cũng cao hơn. Sữa mẹ đáp ứng đuợc nhu cầu của đứa trẻ trong 6 tháng đầu. Nhu cầu năng lượng cho trẻ dưới 1 tháng tuổi (chi tiết trong bài 1: vai trò và nhu cầu các chất glicid, lipid và protein).

1.2.2. Nhu cầu Protein

Nhu cầu protein của trẻ dưới 1 tuổi cao do tốc độ phát triển của xương, cơ và các mô. Nhu cầu protein hàng ngày là 2,2g/kg cân nặng của trẻ, đến tháng thứ tư trở đi nhu cầu protein là 1,4g/kg/ngày. Đối với trẻ em nên sử dụng protein có giá trị sinh học cao từ 70-85% như sữa, thịt, trứng. Đối với trẻ em nên sử dụng protein có giá trị sinh học cao như sữa, thịt, trứng. Hiện nay, theo khuyến cáo của WHO/UNICEF đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi bú mẹ hoàn toàn là đảm bảo nhu cầu protein để trẻ phát triển và khỏe mạnh. Nhu cầu protein của trẻ em Việt Nam hiện nay (chi tiết trong bài 1: vai trò và nhu cầu các chất glicid, lipid và protein).

1.2.3. Nhu cầu Lipid

Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo trước hết cho nhu cầu năng lượng và các acid béo cần thiết và hỗ trợ việc hấp thu các vitamin tan trong dầu (A, D, E, K). Nhu cầu lipid ở trẻ dưới 1 tuổi được xác định dựa vào lượng chất béo trung bình có trong sữa mẹ và lượng sữa trung bình đứa trẻ được bú.

Ở trẻ đang bú mẹ, vì 50-60% năng lượng ăn vào là do chất béo của sữa mẹ cung cấp nên khi trẻ bắt đầu ăn bổ sung, nhất là khi cai sữa cần chú ý đến tình trạng dinh dưỡng giảm lượng chất béo đột ngột do bú mẹ ít hơn hoặc đã ngừng bú mẹ. Nhu cầu khuyến nghị về lipid (chi tiết trong bài 1: vai trò và nhu cầu các chất glicid, lipid và protein).

Hiện nay nhu cầu các acid béo ở trẻ được quan tâm như những acid béo chuỗi dài có các mạch kép (Polyunsaturated fatty acids - PUFA), docosapentaenoic acid (DHA), Eicosapentanoic acid (EPA). Những chất acid béo này được phát hiện là có nhiều trong sữa mẹ và được coi là thiết yếu cho phát triển của não, chính vì vậy những nhà sản xuất sữa thay thế sữa mẹ quan tâm để bổ sung vào sữa thay thế, tuy nhiên những báo cáo về vai trò của các acid béo này đối với sự phát triển của trẻ vẫn chưa đầy đủ.

1.2.4. Nhu cầu Glucid

Người ta thấy 8% glucid trong sữa mẹ là lactose xấp xỉ 7g trong 100 ml sữa mẹ, trong chế độ ăn 37% năng lượng của trẻ do glucose, theo tháng tuổi lượng glucid trong bữa ăn của trẻ thay đổi bởi các thức ăn bổ sung và khi nhu cầu năng lượng của trẻ thay đổi.

1.2.5. Vitamin

Vitamin tan trong nước: Đối với vitamin tan trong nước sữa mẹ cung cấp đủ nhu cầu cho trẻ khi người mẹ được ăn uống đầy đủ. Nhu cầu đề nghị vitamin tan trong nước chủ yếu dựa vào hàm lượng các vitamin nhóm này và thêm giới hạn an toàn cho trẻ.
0
2
Thiên sơn tuyết liên
14/01/2021 21:50:44
+3đ tặng
Thực phẩm và nhu cầu dinh dưỡng cho các đối tượng khác nhau
Dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Dinh dưỡng không hợp lý kể cả thiếu hoặc thừa cũng có thể có hại đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ. Sự phát ...

Dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Dinh dưỡng không hợp lý kể cả thiếu hoặc thừa cũng có thể có hại đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ.

Sự phát triển nói chung phụ thuộc vào các yếu tố: di truyền, nội tiết, thần kinh thực vật và dinh dưỡng, trong đó ba yếu tố đầu đảm bảo thế phát triển nhất định. Khi thiếu ăn tạm thời, cơ thể có thể phát triển chậm nhưng tình trạng đó có thể hồi phục khi lượng thức ăn ăn vào đầy đủ. Trong trường hợp dinh dưỡng không hợp lý kéo dài có thể cản trở sự hồi phục đó, do vậy cần quan tâm đặc biệt đến dinh dưỡng.

Dinh dưỡng cho trẻ em dưới một tuổi

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lớn và phát triển của một đứa trẻ, song dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ phụ thuộc vào chế độ ǎn của người mẹ trong suốt thời kỳ mang thai, vào việc người mẹ có đủ sữa và chế độ ǎn bổ sung có hợp lý với trẻ hay không (Hofvander và Margaret, 1983). Sữa mẹ là thức ǎn hoàn chỉnh nhất cho trẻ trong tháng đầu. Sữa mẹ chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng và an toàn cho trẻ sơ sinh (Motarjemi và cộng sự, 1983). Lượng sữa mẹ sẽ giảm đi vào tháng thứ 6. Theo Hofvander và cộng sự (1983), trẻ sẽ được ǎn bổ sung vào tháng thứ 6, khi sữa mẹ không còn đủ đáp ứng nhu cầu của trẻ. Lúc này một chế độ ǎn bổ sung hợp lý cho trẻ là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển thì vấn đề đặt ra lại là thức ǎn bổ sung cho trẻ thường không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cả về mặt số lượng, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Phương pháp dinh dưỡng đối với trẻ em có đủ sữa mẹ

Sữa mẹ có đủ năng lượng và các chất dự trữ cần thiết cho sự phát triển cơ thể trẻ em dưới một tuổi (Bảng 9.1). Sữa non tiết ra trong tuần đầu sau khi sanh thường có chứa nhiều kháng thể (IgA), các tế bào bạch cầu hơn sữa thường, cho trẻ bú sớm sẽ tận dụng được nguồn sữa non, giúp trẻ tăng sức đề kháng, chống lại bệnh tật.

 

 So sánh sữa mẹ và sữa bò, thành phần có trong 100 ml sữa

Protein trong sữa bao gồm: casein, albumin và globulin. Tuy tổng lượng protein trong sữa mẹ ít hơn trong sữa bò nhưng sữa mẹ có nhiều albumin và globulin thích hợp với khả năng tiêu hoá của trẻ. Dưới tác dụng của men tiêu hoá, protein của sữa mẹ sẽ vón lại thành những hạt nhỏ rất dễ tiêu. Ngược lại, protein của sữa bò đa số là casein sẽ vón lại thành những cục sữa đặc khó tiêu hoá hơn.

Lipid trong sữa mẹ có nhiều acid béo không no là những chất dễ tiêu hoá và cần thiết cho sự phát triển của trẻ. Khả năng thủy phân chất béo của men lipase có trong sữa mẹ mạnh hơn sữa bò đến 15 - 25 lần.

Sữa mẹ có nhiều lactose, chủ yếu là β size 12{β} {}-lactose, là môi trường tốt kích thích sự hoạt động của các vi khuẩn lên men chua làm tăng sự tiêu hoá sữa, đồng thời lại ức chế sự hoạt động của vi khuẩn gây thối. Ngược lại sữa bò có chứa nhiều lactose là môi trường tốt cho vi khuẩn có hại hoạt động, vì vậy trẻ bú sữa bò thường hay bị rối loạn tiêu hoá hơn. Sữa mẹ có nhiều vitamin A, C, D, B2 hơn sữa bò. Bú mẹ giúp trẻ phòng bệnh khô mắt do thiếu vitamin A, còi xương.. Lượng calci, sắt trong sữa mẹ tuy ít, nhưng tỷ lệ hấp thu cao nên bú sữa mẹ trẻ ít bị còi xương và thiếu máu.

Sữa mẹ chứa nhiều men, hormone, kháng thể là những chất mà sữa bò không có. Mặt khác sữa mẹ còn chứa các globulin miễn dịch bài tiết (SIgA) cùng với các đại thực bào có tác dụng bảo vệ, chống dị ứng. Vì vậy trẻ bú mẹ ít bị các bệnh tiêu chảy, bệnh về hô hấp và ít dị ứng, chàm.. hơn trẻ ăn sữa bò.

Phương pháp cho trẻ ăn thêm thức ăn bổ sung (ăn sam)

Khi được 5 tháng, sữa mẹ không đủ thoả mãn nhu cầu cho đứa trẻ đang lớn, vì vậy phải cho trẻ ăn thức ăn bổ sung.

  • Nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung

- Tập cho trẻ ăn từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc, cho trẻ quen dần với thức ăn lạ, mỗi lần một ít, một loại thức ăn mới.

- Chế biến phù hợp với lứa tuổi, đảm bảo vệ sinh

- Ăn nhiều bữa, phối hợp nhiều loại thức ăn để bữa ăn đủ chất và hợp lý.

  • Chế độ ăn bổ sung cho trẻ dưới 1 tuổi

Số bữa ăn bổ sung trong ngày cho trẻ:

+ 5 tháng: Bú mẹ + 1 bữa bột loãng

+ 6 tháng: Bú mẹ + 1 bữa bột đặc

+ 7 - 8 tháng: Bú mẹ + 2 bữa bột đặc

+ 9 - 12 tháng: Bú mẹ + 3 - 4 bữa bột đặc

+ Khi trẻ tròn một tuổi có thể cho ăn cháo nghiền

  • Các loại thức ăn bổ sung

Một bữa ăn của trẻ cần phối hợp nhiều loại thức ăn có trong ô vuông sau:


Dinh dưỡng cho trẻ em trên một tuổi và thanh thiếu niên
Nhu cầu các chất dinh dưỡng

a. Nhu cầu carbohydrate

Carbohydrate là nguồn năng lượng chính trong khẩu phần của trẻ em. Thừa carbohydrate trong khẩu phần gây hạ thấp sử dụng các chất dinh dưỡng khác, ảnh hưởng không có lợi đến sức khoẻ của trẻ. Một số tác giả cho rằng nhu cầu trẻ em hàng ngày về carbohydrate nên khoảng 10 – 15 g/kg cân nặng. Ở trẻ em 13-15 tuổi hoạt động chân tay nhiều nên có khoảng 16 g/kg cân nặng. Năng lượng do carbohydrate đưa vào khẩu phần nên ít nhất vào khoảng 50% tổng số năng lượng của khẩu phần.

b. Nhu cầu protein

Protein thức ăn là thành phần tạo hình chính. Nhu cầu protein thay đổi theo tuổi, trẻ càng bé nhu cầu protein tính theo cân nặng càng cao. Theo FAO, nhu cầu protein cho trẻ em từ 1 - 3 tuổi là 4 g/kg cân nặng. Ở các lứa tuổi khác cũng có sự khác nhau tương tự, nguyên nhân là do:

  • Thiếu protein ảnh hưởng tới sức lớn, phát triển, sức đề kháng của cơ thể, gây tình trạng suy dinh dưỡng do thiếu protein.
  • Ngược lại một lượng thừa protein lại có ảnh hưởng không có lợi đối với cấu trúc và chức phận tế bào và xúc tiến quá trình lão hoá.

Về chất lượng protein nói chung các tác giả đều cho rằng nếu phối hợp thích đáng giữa protein động vật và thực vật thì nhu cầu các acid amin cần thiết sẽ được thoả mãn đầy đủ.

c. Nhu cầu lipid

Nhu cầu lipid được tính theo tuổi, tuổi càng bé nhu cầu lipid tính theo trọng lượng cơ thể càng cao. Theo tiêu chuẩn của Viện Dinh Dưỡng Liên Xô, hàm lượng lipid và protein nên ngang nhau trong khẩu phần trẻ em và thanh thiếu niên.

d. Nhu cầu vitamin

Vitamin là thành phần chính trong khẩu phần của trẻ. Do nhu cầu phát triển và chuyển hoá vật chất cao nên nhu cầu vitamin ở trẻ em tính theo trọng lượng cao hơn đối với người lớn. Ở chế độ ăn của trẻ, cần cung cấp đầy đủ vitamin A và C. Nếu các nguồn thức ăn không đầy đủ các thành phần này, có thể cho các vitamin dưới dạng chế phẩm tổng hợp hoặc thông qua vitamin hoá thực phẩm. Cần cung cấp thêm vitamin D cho trẻ vì khẩu phần ăn bình thường không thoả mãn nhu cầu trẻ em về vitamin này.

e. Nhu cầu chất khoáng

Các chất khoáng giữ vai trò quan trọng đối với cơ thể đang phát triển. Tuy nhiên yêu cầu chung về chúng vẫn còn chưa đầy đủ. Calci tham gia vào quá trình cốt hoá, khi thiếu calci trẻ em ngừng lớn, răng phát triển không bình thường. Theo FAO, nhu cầu calci ở trẻ em thể hiện ở Bảng 9.2

 Nhu cầu calci của trẻ em

Nhu cầu về phosphor thường tính theo tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần. Natri và kali là chất điều hoà chính của chuyển hoá nước trong cơ thể. So với người lớn, trẻ em cần nhiều kali hơn natri. Theo một số tài liệu nhu cầu của kali là 5 mg/kg cân nặng.

Thiếu sắt trong cơ thể cũng có thể gây thiếu máu ở trẻ, nguồn sắt thay đổi tùy theo lứa tuổi, vào khoảng 7 - 8 mg ở trẻ trước tuổi đi học và 10 - 15 mg ở tuổi học sinh.

Iode và fluor giữ vai trò lớn trong phát sinh bệnh bướu cổ, sâu răng và nhiễm độc fluor.

Chế độ ăn và nguyên tắc xây dựng thực đơn

Tổ chức dinh dưỡng hợp lý đòi hỏi chấp hành chế độ ăn nhất định: trẻ em trên 1,5 tuổi nên ăn mỗi ngày 4 lần ở những khoảng thời gian nhất định. Khoảng cách giữa các bữa ăn thường vào khoảng 4 giờ. Phân phối từng bữa ăn thường bố trí như sau:

Với nhu cầu năng lượng trẻ em đến một tuổi là 800 - 900 kcal.

Ở các trẻ em do cơ quan tiêu hoá chưa thật hoàn chỉnh, do đó thức ăn cần dễ tiêu, giàu protein có giá trị cao, calci và vitamin.

Nhu cầu năng lượng cần thiết cho trẻ em được cho ở Bảng 9.3 và thực phẩm sử dụng được phân chia theo mô hình kim tự tháp (Hình 9.1)

 Nhu cầu năng lượng của trẻ em

 

Dinh dưỡng cho công nhân

Lượng protein trong khẩu phần người lao động luôn luôn cao hơn người nhàn rỗi. Nhiều nghiên cứu về sinh lý cho thấy ở khẩu phần nghèo protein, lực của cơ nhất là khả năng lao động nặng giảm sút rõ rệt.

Nhu cầu năng lượng
  • Tiêu hao năng lượng

Tiêu hao năng lượng của người lao động tùy theo cường độ lao động, thời gian lao động, tính chất cơ giới hoá và tự động hoá quá trình sản xuất.

  • Phân loại lao động

Tùy theo cường độ lao động, nhu cầu năng lượng của các loại lao động như sau:

 

Nhu cầu các chất dinh dưỡng

- Protein: khẩu phần người lao động cần có tỷ lệ từ 10 - 15% năng lượng do protein. Lượng protein ăn vào càng cao khi lao động càng nặng. Lượng protein động vật nên chiếm 60% tổng số protein.

- Lipid và carbohydrate: khi lao động nặng, lipid bị phân hủy nhiều và quá trình hình thành lipid từ carbohydrate trong cơ thể bị hạn chế. Các biểu hiện rõ rệt của tích chứa lipid thừa thường không có ở những người lao động chân tay.

- Vitamin và chất khoáng: các vitamin tan trong chất béo không thay đổi theo cường độ lao động, tiêu chuẩn như người trưởng thành. Các vitamin tan trong nước thay đổi tùy theo cấu trúc bữa ăn. Lượng thừa vitamin không ảnh hưởng gì đến năng suất lao động của người công nhân. Các nhu cầu về chất khoáng nói chung giống nhau cho các đối tượng lao động (như ở người trưởng thành). Thực hiện chế độ ăn ba bữa hoặc bốn bữa.

Dinh dưỡng cho nông dân
Tiêu hao năng lượng

Các nghiên cứu về tiêu hao năng lượng trong nông nghiệp cho thấy:

- Cường độ tiêu hao năng lượng của cùng quá trình lao động thay đổi nhiều tùy theo mức độ cơ giới hoá.

- Tiêu hao năng lượng trung bình của nông dân xã viên, công nhân các nông trường cao hơn công nhân công nghiệp loại nhẹ và gần với tiêu hao năng lượng của công nhân xây dựng và giao thông.

- Tính chất công việc của nông dân phần lớn thuộc loại lao động nặng trung bình. Theo các tài liệu nghiên cứu, tiêu hao năng lượng của xã viên nông nghiệp là 2700 Kcal/ngày (cả nam và nữ).

Nhu cầu các chất dinh dưỡng

Lao động nông nghiệp không đề ra những đòi hỏi về nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt. Những yêu cầu về dinh dưỡng đối với người lao động nói chung tương tự với lao động công nghiệp.

Nhu cầu năng lượng

Sống và hoạt động của con người kèm theo tiêu hao năng lượng không ngừng. Lao động trí óc dù căng thẳng nhiều hay ít, không kèm theo tiêu hao năng lượng cao.

Ở người lao động trí óc trong điều kiện lao động chân tay không quá 90 - 110 Kcal/giờ. Nhu cầu năng lượng thuộc loại lao động nhẹ, lao động văn phòng, khoảng 2200 - 2400 Kcal/ngày.

Tiêu chuẩn dinh dưỡng

Nguyên tắc chính của dinh dưỡng hợp lý đối với người lao động trí óc là duy trì năng lượng của khẩu phần ngang với năng lượng tiêu hao. Trong khẩu phần người lao động trí óc và tĩnh tại nên hạn chế lipid và carbohydrate. Nhiều tài liệu khẳng định ảnh hưởng của lượng lipid thừa đối với hình thành xơ vữa động mạch sớm đối với người lao động chân tay. Carbohydrate, đặc biệt các loại có phân tử thấp là thành phần thứ hai nên hạn chế ở người ít lao động. Nhiều tài liệu cho rằng nên hạn chế carbohydrate tới số lượng 350 - 400 g/ngày, chủ yếu là hạn chế các loại bột có tỷ lệ xay xát cao, đường và các loại thực phẩm giàu đường. Nhu cầu protein cần cao và lượng protein động vật không dưới 60% tổng số protein, đảm bảo tính cân đối bộ ba: methionine + cystine, tryptophane và lysine. Cung cấp đầy đủ vitamin cho người lao động trí óc là vấn đề quan trọng. Vitamin được xem là thành phần cần thiết bắt buộc của khẩu phần, để đảm bảo chuyển hoá và các hoạt động chức phận bình thường của cơ thể, nhất là hệ thống thần kinh trung ương, tim mạch, tiêu hoá và nội tiết.

Những biến đổi ở tuổi già

Sự chậm trễ các phản ứng oxy hoá khử, sự hạ thấp chuyển hoá vật chất và khả năng hoạt động của các cơ quan và hệ thống trong cơ thể. Trong giai đoạn này còn là sự phát triển của quá trình teo đét và thoái hoá.

Quá trình tái tạo nguyên sinh chất bị giảm cả về cường độ lẫn chất lượng. Các loại protein sinh sản (nucleoproteid) có khả năng tái sinh, tổng hợp và hồi phục dần dần bị thay thế bởi các protein chức phận không có khả năng đó. Tổ chức thần kinh trung ương chậm già nhất nhưng có những biểu hiện hạ thấp khả năng lao động trí óc.

Những yêu cầu về dinh dưỡng

Tình trạng dinh dưỡng không hợp lý ở người già thường do:

- Khả năng chức phận của cơ thể giảm sút

- Nhai kém

- Biến đổi tâm lý

Nhu cầu năng lượng

Tuổi càng cao, chuyển hoá cơ bản càng giảm, hoạt động cơ thể nói chung giảm dần. Nhu cầu năng lượng theo cách tính của FAO cho người trên 60 tuổi khoảng 1800 - 1900 Kcal/ngày (nữ) và 2300 Kcal/ngày (nam).

Nhu cầu protein

Hạn chế lượng protein đối với người lớn tuổi vì lượng thừa của chúng dễ gây hình thành và phát triển xơ vữa động mạch. Hạn chế sử dụng nguồn protein động vật như thịt và sử dụng chủ yếu các chế độ ăn sữa, protein thực vật. Tỷ lệ protein động vật và thực vật không quá 1 (≤ 1).

Nhu cầu lipid

Lượng lipid trong khẩu phần người đứng tuổi và già cần hạn chế vì có thể gây xơ vữa động mạch và cũng cần hạn chế một lượng lớn lipid gây khó tiêu đối với người già. Nên sử dụng chất béo có độ hoá lỏng thấp, các dầu thực vật giàu các acid béo chưa no và cần phối hợp với vitamin E để đề phòng các biến đổi ở da và xơ vữa động mạch.

Nhu cầu carbohydrate

Tỷ lệ giữa protein, lipid và carbohydrate nên thay đổi về phía hạ thấp lipid và carbohydrate. Tỷ lệ có thể chấp nhận là 1:0.8:3. Một lượng thừa carbohydrate dễ đồng hoá gây tăng cholesterol và tác dụng không tốt tới tình trạng và chưc phận của hệ vi sinh vật đường ruột. Các loại rau tươi còn là nguồn acid tartaric và fitonxit. Acid tartaric có tác dụng ức chế các quá trình chuyển hoá carbohydrate và lipid trong cơ thể. Các fitonxit ngoài tác dụng tiệt trùng còn điều hoà hệ vi khuẩn đường ruột, đặc biệt đến chức phận tổng hợp của chúng và ức chế các vi khuẩn gây thối.

Vitamin

Các vitamin có tác dụng ức chế sự phát triển của quá trình già, duy trì hoạt động bình thường của hệ thống tim mạch và thần kinh, ức chế quá trình xơ hoá. Các vitamin C và vitamin PP có vai trò nhất định trong duy trì tình trạng bình thường của các mạch máu. Vitamin C còn điều hoà chuyển hoá cholesterol, tăng tính phản ứng của cơ thể và ảnh hưởng tốt đến chức phận của tuyến nội tiết và cơ quan tiêu hoá. Cần cung cấp đầy đủ và cân đối các vitamin cần thiết B1, B2, B6 và vitamin A.

Các chất khoáng

Magne là chất khoáng quan trọng ở lứa tuổi này vì có tác dụng kích thích nhu động ruột và tăng tiết mật. Nhu cầu mỗi ngày 300 - 400 mg. Kali cũng là chất khoáng có tầm quan trọng đối với tuổi già. Kali tham gia vào cấu tạo acetylcholine là chất chuyển các kích thích thần kinh cho các tế bào cơ. Khoai tây là nguồn kali thích hợp nhất ở người trưởng thành và người lớn tuổi.

Chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn người phụ nữ mang thai để củng cố và xây dựng mới các cơ quan cho người mẹ, đồng thời còn cho sự phát triển của bào thai. Các nghiên cứu ở nước ta cho thấy lao động của phụ nữ còn nặng, năng lượng tiêu hao cao và tình trạng thiếu năng lượng lâu dài còn phổ biến. Một vài chất dinh dưỡng rất cần thiết trong giai đoạn mang thai như acid folic, sắt.. thường bị thiếu hụt. Vì vậy nhu cầu đề nghị ở lao động nữ cao hơn 300 Kcal so với kết quả tính toán từ khuyến nghị của WHO.

Với phụ nữ có thai (3 tháng cuối), nhu cầu bổ sung là 350 Kcal và 15 g protein, và phụ nữ cho con bú (6 tháng đầu) nhu cầu bổ sung là 550 Kcal và 28 g protein. Nhu cầu sắt cho bà mẹ cho con bú là 1,31 mg/ngày. Nhu cầu calci trong giai đoạn mang thai 3 tháng cuối và cho con bú: 1000 - 1200 mg/ngày. Nhu cầu vitamin A trong thời gian mang thai là 600 mcg (đương lượng retinol/ngày) và trong thời gian cho bú là 850 mcg/ngày (đương lượng retinol/ngày). Nhu cầu acid folic là 200 mcg/ngày.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Giáo dục Công dân Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư