LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn làng của nhà văn Kim Lân

 từ lúc ông nghe tin làng theo giặc đến kết thúc )
6 trả lời
Hỏi chi tiết
460
0
0
Lê Thị Thảo Nguyên
23/05/2019 20:13:11
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây ". Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi "nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :"cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".
Về đến nhà ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra " chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ". Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ". Ông đau xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước".Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,"chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là "cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".
Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn...
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:"Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai ?". Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:"Nhà ta ở làng Chợ Dầu","ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !". Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ". Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt "chảy ròng ròng trên hai má". Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ". Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả." "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm "Làng " xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Trần Thị Huyền Trang
23/05/2019 20:13:29
Nhà văn Kim Lân được biết đến là nhà văn của nông thôn Việt Nam, với các tác phẩm gần gũi với đời sống người nông dân. Đến với truyện ngắn “Làng”, qua hình tượng nhân vật ông Hai, bạn đọc lại bắt gặp hình ảnh một người nông dân chất phác, hiền lành, mang trong mình một tình yêu quê hương, yêu đất nước vô cùng sâu sắc.
Ông Hai là một người nông dân hiền lành, chất phác. Khi giặc Pháp đến càn quét, gia đình ông Hai phải đi tản cư. Ông cùng vợ con phải xa rời làng, xa quê hương để tản cư đến làng khác. Ông Hai giữ trong mình nét chân chất thôn quê của người nông dân. Dù là nơi ở mới, ông thường đến nhà hàng xóm để kể chuyện về làng của mình, để giãi bày tâm sự, để vơi đi nỗi nhớ quê hương. Ông cũng có thói quen đi nghe báo, đi nghe nói chuyện, dễ dàng bắt chuyện với mọi người. Ông không biết chữ, nên rất thích những anh nào đọc báo mà lại đọc rõ to như cho tất cả mọi người đều nghe thấy. Khi nghe tin cải chính làng mình không theo giặc, ông Hai vui sướng đi khoe với tất cả mọi người. Điều đó cho thấy rõ ông Hai là một người nông dân mang bản tính hiền lành, chất phác.
Ông Hai là một người có tình yêu làng sâu sắc và mãnh liệt. Đến nơi tản cư mới, ông không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng. Ông nhớ về những kỉ niệm đào hào, đắp ụ ở quê, đi đâu cũng khoe về cái dinh tổng, ông tự hào về làng lắm. Và thật trớ trêu khi một tình huống đặt ra: ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc. Mới nghe thấy tin đó thôi mà “cổ họng ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Một cảm giác tủi hổ và thất vọng tràn trề đã khiến ông Hai cứ cúi gầm mặt xuống mà đi, không dám nhìn thẳng vào ai, không dám đi đâu trong mấy ngày liền. Vì quá yêu làng, nên ông Hai rất khó tin vào việc làng mình theo Tây, nên ông rất xấu hổ và cảm thấy tủi nhục. Và điều tuyệt vời nhất, là khi tin làng chờ Dầu theo Tây được cải chính, ông lão mừng vui khôn tả xiết. Cảm giác như viên đá đè nặng tâm trạng ông bao nhiêu ngày qua đã được gạt bỏ, để ông lấy lại được tâm trạng vui tươi, phấn khởi xen lẫn tự hào. Ông lại đi từ nhà dưới lên nhà trên, lại khua chân múa tay, kể về việc làng ông đã có tinh thần chống giặc như thế nào, kể chân thực đến mức như chính ông là người tham gia cuộc chiến đó vậy. Ông Hai còn đi đâu cũng khoe việc nhà mình bị đốt. Đối với bình thường, một gia đình người nông dân, gia tài lớn nhất là nhà, là nơi chốn đi về, gia đình quây quần, mất đi nhà là mất đi cả một gia tài lớn. Theo lẽ thường, đáng ra khi nhà bị đốt thì ông Hai sẽ phải buồn rầu tiếc nuối, nhưng không, ông lại còn đi khoe hết người nọ người khia về việc nhà mình bị đốt. Đó như là một minh chứng rõ ràng cho việc làng chợ Dầu đã kiên cường chống trả giặc như thế nào, và ông Hai tự hào về điều đó. Những tài sản của cá nhân không đáng gì so với việc cải chính tin làng chờ Dầu theo giặc. Theo đó, ta mới thấu hiểu được tình yêu làng của ông Hai to lớn, sâu sắc đến nhường nào.
Ông Hai còn là một người nông dân mang trong mình tình yêu đất nước sâu sắc. Ai cũng biết ông Hai vô cùng yêu làng chợ Dầu của mình. Nhưng tình huống trớ trêu đặt ra là có tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông Hai đã phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu đất nước. Ông băn khoăn, day dứt và khổ tâm không tài nào diễn tả được. Cuộc trò chuyện xúc động giữa ông Hai và cậu con trai đã thể hiện rõ tư tưởng của ông. Ông tâm niệm “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Vậy là, dù cho tình yêu làng lớn như thế nào, nhưng tình yêu đất nước vẫn bao hàm và lớn lao hơn rất nhiều. Ông Hai một lòng vẫn tin vào ánh sáng của Đảng, vẫn tin vào lý tưởng của cụ Hồ. Đó là một niềm tin đúng đắn, thể hiện tư tưởng cách mạng vững vàng, tiêu biểu cho tư tưởng của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ.
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, cùng miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật đặc sắc, nhà văn Kim Lân đã tái hiện chân thực hình ảnh người nông dân Việt Nam-qua hình ảnh ông Hai- với nhiều phẩm chất tốt đẹp. Ông Hai vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, và ẩn sâu bên trong, ông mang một tình yêu lớn lao, sâu sắc đối với quê hương và đất nước.
0
0
SayHaiiamNea ((:
23/05/2019 20:14:09
Trong nền văn học hiện đaị Việt Nam, Kim Lân được biết đến qua những truyện ngắn về hình ảnh người nông dân và bức tranh sinh hoạt ở làng quê. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với Cách Mạng. Họ không phải là những người suốt ngày sống quẩn quanh với mảnh vườn, cam chịu một cuộc sống bế tắc và bi thảm mà là những người nông dân đi tản cư kháng chiến có tình yêu làng gắn chặt với tình yêu Cách mạng, đất nước. Nhân vật ông Hai trong tác phẩm là một bằng chứng.
Truyện ngắn Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người Việt Nam thời kỳ kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước. Đây là tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người. Cụ thể là nhân vật ông Hai.
Tình yêu làng của ông ít nhiều thay đổi theo thời gian nhưng trước sau như một, ông vẫn gắn bó, chung thủy với làng chợ Dầu thân thiết của mình. Trước cách mạng, mỗi lần đi đâu xa, nói về làng của mình, ông chỉ đề cập đến “cái sinh phần” của viên tổng đốc làng ông. Lão có vẻ hãnh diện về cái sinh phần ấy lắm, bởi vì nó có bề dày lịch sử và một phần có sự đóng góp của ông: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi. Có lảm lắm là của, vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy”.
Những từ sau ngày khởi nghĩa, vẫn có tính hay khoe về làng nhưng ông chẳng hề đả động đến cái lăng ấy nữa bởi vì xây cái lăng ấy bản thân ông và những người trong làng này đều phải chịu khổ sở. Bây giờ nói đến làng, lão lại đề cập đến “những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng mà ông gia nhập trong phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự, cả giới phu lão, có cu râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ông nhớ rành rọt trong tâm trí của mình “những hố, những u, những giao thông hào của làng”. Ông kể về làng của mình như một thứ tật nghiện chứ không cần chú ý đến người nghe có thích lắng nghe hay không.
Vì lẽ đó, tới những ngày phải đi tản cư, lòng ông cứ băn khoăn chẳng muốn rời xa cái làng thân yêu ấy một tý nào bởi vì theo lão “quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót”. Xa làng rồi, ông Hai mới cảm thấy nhớ làng Dầu biết chừng nào. Lắm lúc đang nghĩ ngợi vẩn vơ, ông lại chợt nhớ đến những ngày cùng làm việc với anh em, và lại khao khát được quay trở về làng để cùng mọi người đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Nỗi mong ngóng ấy cứ dằn vặt và trào dâng trong lòng ông. Thật đúng là:
“Khi ta ở đất chỉ là đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Dõi theo tác phẩm, ta thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng của ông thống nhất, hòa quyện với tình cảm yêu mến, thủy chung đối với cuộc Cách mạng của dân tộc, đối với đất nước.
Bản thân ông luôn tự hào làng của mình là làng kháng chiến, những người dân trong làng từ già đến trẻ đều là những con người có tinh thần quả cảm và bất khuất.
Chính lòng yêu nước đã làm cho ông cảm thấy vui mừng, tự hào về tinh thần dũng cảm cũng như thành tích chiến đấu của đồng bào dân tộc mà ông theo dõi được trên báo chí hằng ngày: “Ruột gan ông cứ múa cả lên…”
Quá đỗi hãnh diện về truyền thống anh hùng của làng và lòng yêu nước sâu sắc vốn có của mình, ông Hai đã quá bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn trước cái tin chợ Dầu: “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”. Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, bao nhiêu mơ ước được quay về làng bỗng hoàn toàn sụp đổ… Ông đau khổ như vừa lạc vào một vùng bóng tối dày đặc. Là người dân của làng chợ Dầu, ông Hai cảm thấy mình có tội nhục nhã xiết bao: “nước mắt ông giàn ra”.
Đó là những giọt nước mắt câm hờn, khổ đau, tủi nhục của con người sắt son, chung thủy với cuộc cách mạng. Trước kia, ông yêu làng là thế, bây giờ mới chớm nghĩ trở về, ông đã lập tức phản đối ngay “Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi!Về tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cao quý biết bao những lời lẽ đó của ông Hai! Đã thế, ông còn nguyền rủa đối với những ai có tư tưởng bán nước hạ mình: “Chúng bay ăn cơm hay ăn cái giống gì vào mồm mà lại làm việc bán nước để nhúc nhã thế này?”
Đến lúc bị mụ chủ nhà đuổi khóe về làng, ông Hai lại càng khổ sở và đau đớn hơn nữa, lòng căm thù cái làng Việt gian ấy bỗng trổi dậy ở đáy lòng ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi, thì phải thù”. Bao nhiêu khao khát trở về làng, ông đành nén lại mà tìm về nẻo chánh: “Ủng hộc cụ Hồ Chi Minh muôn năm!”.
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, ta thấy rõ ở ông tấm lòng chung thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
Càng buồn tuổi bao nhiêu, ông Hai lại càng trở nên tươi vui, rạng rỡ hẳn lên khi nghe tin cải cính về làng Dầu của mình. Ông vui mừng lịm người và đi thông báo cho cả xóm biết. Đồng thời lấy ngay việc Tây đốt nhà mình là một bằng chứng có giá trị hùng hồn và đầy sức thuyết phục nhất: “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn… Láo, láo hết, toàn là sai sự mục đích cả”.
Thanh minh cho tin đồn bậy đó, chắc hẳn lòng ông thanh thản biết bao. Người nông dân đáng cảm phục ấy chấp nhận hy sinh tất cả chứ không chịu khuất thân với giặc. Họ sẵn sàng hy sinh của cải và tính mạng mình vì Tổ quốc. Điều ấy đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay của dân tộc ta.
Nhắc đến Kim Lân người ta thường nghĩ đến hai tác phẩm đặc sắc: “Vợ nhặt” và“Làng”. Ở hai tác phẩm ấy, ông đều tỏ ra sắc sảo khi xây dựng hình tượng người nông dân trong nạn đói khủng khiếp của Cách Mạng Tháng Tám và hình ảnh người nông dân bước đầu đến với cách mạng.
Hình ảnh ông Hai có thể được xem là gạch nối giữa người nông dân trong quá khứ và người nông dân đang làm chủ cuộc đời mới. Họ vẫn giữ trong tâm hồn mình những tình cảm tốt đẹp đối với làng quê, ruộng vườn, con trâu, cái cày… nhưng tâm hồn họ khỏe khoắn, lành mạnh chứ không sống cam chịu, bất lực như anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, Chị Dậu trong “Tắt đèn” của cụ Ngô Tất Tố hoặc hình ảnh của một Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao phải chọn lấy cái chết để giải quyết số phận bi thảm và bế tắc của mình.
Từ tình cảm gắn bó với mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” họ đã dần dần gắn bó thủy chung với cách mạng, với cụ Hồ, với dân tộc. Có thể nói trong số những người nông dân xuất hiện trong nền văn học sau những ngày Cách Mạng Tháng Tám, người ta không thể nào quên được hình ảnh ông Hai của nhà văn Kim Lân.
Lần giở lại những trang văn trong những năm kháng chiến của dân tộc, ta đã không ít lần bắt gặp hình ảnh người nông dâ n yêu nước như ông Hai. Đó còn là hình ảnh ông Tư vườn chim trong truyện ngắn “Giấc mơ ông lão vườn chim” của nhà văn Anh Đức với những“cơn đau rừng” quặn thắt ruột gan khi rừng tràm, vườn chim bị bọn xâm lược bắn giết tàn phá. Nguồn vui của ông đơn sơ bình dị: “Cái chi tao dứt bỏ được chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu”.
Chính họ, những người nông dân yêu nước ấy đã góp phần không nhỏ vào những kỳ tích oan hùng, những thắng lợi rực rỡ trong cuộc trường chinh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Ở truyện ngắn này, Kim Lân đã chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lý nhân vật khá sắc sảo. Đặc biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật ông Hai. Lúc thì tác giả diễn tả tâm lý qua những biểu hiện bề ngoài như cử chỉ, nét mặt, lời nói… lúc thì tác giả miêu tả trực tiếp những ý nghĩ sâu kín trong nội tâm nhân vật.
Góp phần vào thành công của truyện ngắn “Làng” ta còn phải kể đến nét đặc sắc của ngôn ngữ nghệ thuật tiêu biểu là ngôn ngữ nhân vật. Kim Lân vốn đã rất am hiểu và gần gũi với những nhân vật quần chúng của mình, nhà văn đã để họ được nói năng, suy nghĩ, hành động một cách hết sức tự nhiên mà bộ lộ được tâm lý, cá tính rất sinh động.
Ngôn ngữ của ông Hai – cả trong những đối thoại và lời độc thoại – đều tỏ ra lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của một ông lão nông dân vốn gắn bó tha thiết với làng quê và rất thành tâm với cách mạng, với kháng chiến. Đây là tấm lòng chung thủy với kháng chiến được bộc bạch qua những lời tâm sự của ông với đứa con và cũng là tự nhủ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”…
Qua việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ; bút pháp miêu tả tâm lý, nhân vật đặc sắc; cách sử dụng ngôn ngữ nhân vật điển hình…, tác phẩm đã khắc họa cụ thể sinh động hình ảnh nhân vật ông Hai có tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước để từ đó tác giả nhằm ca ngợi tình cảm và tình thần kháng chiến của những người nông dân phải rời làng tản cư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đọc truyện, ai trong chúng ta lại chẳng cảm thấy yêu mến, tự hào về lớp lớp cha ông đi trước… Với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã góp thêm một bằng chứng về tinh thần yêu nước và tình yêu quê hương xứ sở của người dân Việt Nam.
0
0
Hoàng Hà Chi
23/05/2019 20:17:53
Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,... thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân - nhà văn nông dân - mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.
Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn "Làng", không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. "Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động." Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. "Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. [...] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá." Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: "Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá." Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như xét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. "Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ." Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải "cúi gằm mặt đi thẳng", "nước mắt ông cứ giàn ra". Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ "cả làng chúng nó Việt gian theo Tây" như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại ("Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được?"), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng ("Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi"). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!" Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. "Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?" Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. "Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến "cái chuyện ấy". Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!" Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào "tuyệt đường sinh sống", ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. "Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ." Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù." Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. "Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ." Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần - lòng yêu nước.
Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên." Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về "Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!" Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: "Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc." Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám - những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.
Truyện ngắn "Làng" đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: "Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện." Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút "quý hồ tinh, bất quý hồ đa".
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh." Truyện ngắn "Làng" đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
24/05/2019 10:59:51
Tình yêu làng, yêu nước, yêu quê hương Tổ quốc vốn là một đề tài lớn của nền văn học dân tộc, văn học yêu nước đặc biệt phát triển trong các giai đoạn có những cuộc đấu tranh cam go chống lại bước chân xâm lược của kẻ thù. Viết về chủ đề yêu nước, nhà văn Kim Lân trong tác phẩm truyện ngắn "Làng" đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai. Một người dân hết lòng trung thành với đất nước cùng sự gắn bó với nơi "chôn rau cắt rốn" của mình.
Ông Hai là một người yêu làng, luôn tự hào về làng của mình. Trong một dịp tình cờ, ông nghe được tin làng chợ Dầu yêu quý của ông đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản bội lại kháng chiến, phản bội lại Cụ Hồ. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thể được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ...giọng lạc hẳn đi". Chỉ một câu văn ngắn gọn, nhà căn Kim Lân đã cụ thể hóa cái sững sờ, ngạc nhiên cao độ, đến hốt hoảng khi nghe tin đột ngột. Không ngạc nhiên, sững sờ sao được khi ông luôn yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu: bà con trong xóm, cây lúa ngoài đồng- ai, cái gì cũng tốt cả mà bây giờ cơ sự lại xảy ra đến mức "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi"
Về đến nhà nhìn đàn con chơi đùa sậm sụi đáng thương với nhau, ông Hai vật ra giường "giàn nước mắt". Đấy là những giọt nước mắt đau đớn, buồn tủi. Ông đau đơn, buồn tủi vì nghĩ đến sự khinh bỉ, hắt hủi của mọi người. Rồi đây người ta xua đuổi cả những đứa trẻ của làng Việt gian nữa. Chúng nhỏ bé, đáng thương nào có nỗi gì. Điều đó chẳng đau đớn, xót xa, buồn khổ lắm sao? Càng nghĩ, ông càng căm giận đến cùng những kẻ bán nước theo giặc để nhục làng, bôi xấu danh dự của làng, trong đó có ông. Ông coi chúng là "chúng bay", không cùng phường, cùng hội, càng không phải giống người! Rít lên trong cuống họng, ông nguyền rủa: " Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước nhục nhã thế này". Ở đây, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại để bộc lộ tâm trạng nhân vật.
Mường tượng, hình dung đến sự tẩy chay của mọi người, ông không khỏi lo lắng "rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy...?" Tâm trạng lo lắng được ông đẩy lên thành lo sợ. Ông cáu gắt với bà vô cớ. Ông trằn trọc thở dài. Ông bủn rủn tay chân. Ông nín thở lắng nghe. Ông nằm im không nhúc nhích. Hóa ra ông sợ mụ chủ nhà khó tính, lắm điều biết chuyện sẽ "không ra cái gì bây giờ". Sau đó ông không dám ra khỏi nhà, không đi tới đâu, lúc nào cũng nghĩ đến "chuyện ấy". Một đám túm lại ông cũng để ý. Dăm bẩy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ. Thoáng nghe những tiếng "Tây", "cam nhông", "Việt gian" là ông lại lủi ra góc nhà, thở dài não nuột: "Thôi, lại chuyện ấy rồi". Thông qua hành vi, cảm giác, ý nghĩ của nhân vật, Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề thành sự sợ hãi trong lòng ông Hai.
Cuối cùng, tâm trạng ông Hai được bộc lộ trong tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt hơn: Làng chợ Dầu theo giặc thì làng chợ Dầu không ai chứa. Ở hoàn cảnh này, tâm trạng của ông Hai trở nên u ám, tuyệt vọng và bế tắc. Ông Hai đã phải trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, đó là về hay không về làng chợ Dầu. Không về làng chợ Dầu thì ông không biết đi đâu, còn về làng thì " Về bây giờ là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Cuối cùng, ông Hai đã quyết định dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng mà theo Tây thì phải thù". Quyết định, tâm trạng và thái độ của ông Hai cho thấy nỗi lo cơm áo dẫu nặng thế nào cũng không đáng sợ bằng nỗi nhục bán nước, tình yêu làng quê dẫu tha thiết bao nhiêu cũng không lớn hơn mà gắn bó với tình yêu Tổ quốc.
Khi đích thân ông chủ tịch xã lên tận chỗ ông Hai báo lại sự việc: "Hóa ra toàn sai sự mục đích cả". Khi ấy, nỗi vui mừng trong lòng ông Hai thật là vô bờ bến. Ông mua quà cho lũ trẻ. Ông đi đầu thôn cuối xóm, lăng xăng chạy tới chạy lui, rời nhà này sang nhà kia hả hê loan báo: "Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn". Ông nói về sự mất mát hệt như khi khoe giàu, khoe đẹp làng mình vì đó là sự cải chính hùng hồn nhất bảo vệ danh dự cho ông, cho làng chợ Dầu.
Như vậy, khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, diễn biến tâm trạng của ông Hai vô cùng phức tạp, ông đau khổ, tuyệt vọng sau đó lại đấu tranh dữ dội giữa suy nghĩ về làng hay không về làng. Nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai vào một tình huống có thể thấy là vô cùng éo le, tuy nhiên sau tình huống ấy, tính cách và con người của ông Hai cũng được bộc lộ một cách rõ nét, trọn vẹn. Ông đặt tình yêu nước lên trên hết, dù yêu quê nhưng ông một lòng trung thành với đất nước, với cụ Hồ. Qua nhân vật ông Hai, chúng ta cũng thấy, Kim Lân am hiểu sâu sắc con người, thế giới tinh thần của con người, nhất là người dân quê.
0
0
(•‿•)
24/05/2019 12:35:13
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp với tác phẩm nổi bật nhất chính là truyện ngắn Làng. Nhân vật chính của truyện chính là nhân vật ông Hai, một lão nông dân hiền làng, chất phác, yêu làng, yêu nước.
Nhân vật ông Hai cũng giống như hàng triệu người nông dân khác. Đồng thời đây là một nhân vật để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc. Ông Hai là một người chăm chỉ “Ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân, ngơi tay”. Ông làm rất nhiều việc, từ đi cày, đi cuốc, đan rổ.. ông đều làm rất khéo, rất giỏi. Đặc biệt ông là một người sống qua hai chế độ. Trước khi đến với cách mạng ông vốn mù chữ nhưng sau đó ông được học ở lớp “Bình dân học vụ” và biết đánh vần.
Ông là người gắn bó với với làng quê và tư hào về làng chợ Dầu. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất hay về tình yêu làng của ông. Ông tự hào vì về cái sinh phần tổng đốc, đi đâu cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe. Thậm chí khi đi tản cư thì cái nết khoe làng của ông cũng không thay đổi. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng nhưng ông không khen về cái sinh phần như trước kia nữa. Cái sinh phần mà khiến ông mang thương tật khi bị bắt làm phu xây trong cái lăng ấy. Bây giờ sau khi được giác ngộ ông mới cảm thấy đáng lẽ mình không nên khoe, không nên “hả hê cả lòng” để rồi bây giờ cảm thấy đó là nỗi đau, nỗi nhục. Nhà văn Kim Lân đã viết với giọng văn châm biếm nhẹ nhàng nhưng để lại giấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Chúng ta có thể thấy được trong con người của ông Hai đã có sự thay đổi về nhận thức. Từ yêu làng bằng việc khoe cái sinh phần thì giờ ông lại thù nó. Ông yêu cái làng Dầu và hăng hái tham gia vào kháng chiến. Quyết tâm kháng chiến và ông luôn tin tưởng về sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ. Khi vợ con của ông đi tản cư thì ông vẫn quyết ở lại cùng mọi người “đào đường, đắp ụ”. Cho đến khi hoàn cảnh thúc ép, cực chẳng đã nên ông mới phải theo vợ con đi tản cư.
Nếu như trước kia ông nói nhiều, hăng hái và hòa đồng với mọi người thì từ ngày đến nơi ở mới tính nết của ông cũng thay đổi. Ông Hai trở nên lầm lì, thậm chí là cáu gắt với vợ con. Có lẽ do những chất chứa về quá khứ và hiện tại khiến ông có nhiều tâm sự và cũng trở nên nóng nảy hơn. Ông cảm thấy vô cùng đau khổ: “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa chứ! Ông giết hết, ông thì giết hết”. Nhưng vì hiểu rõ tính nết ông vốn cũng chỉ là một người nông dân hiền lành, chất phác nhưng lại có tình yêu làng, yêu nước mãnh liệt nên ta phần nào cảm thông cho sự u uất của ông.
Thế rồi trong lúc ông đang hồ hởi với những chiến tích của cuộc kháng chiến thì hay tin dữ. Đó chính là tin cả làng Dầu “Việt gian theo Tây…”. Lúc này Kim Lân đã thực sự thành công khi miêu tả tâm lý của nhân vật với nỗi giằng xé, nội tâm day dứt của ông. “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được, một lúc lâu mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi”. Thế mới có thể thấy niềm tin yêu làng của ông sâu sắc đến nhường nào. Sau khi nghe tin dữ ấy, ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi. Khi trở về thì nằm vật ra giường, nước mắt cứ trào ra. Ấy rồi sự tủi nhục phát ra thành tiếng chửi thề một cách chua chát. Thậm chí ông còn nghĩ ra những tình huống xấu mà ông sắp phải chịu đựng, ông sợ mụ chủ nhà, rồi ông nghĩ quẩn. Nhưng rồi ông lại rất kiên quyết: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Qua những diễn biến tâm lý của nhân vật cho ta thấy được rằng ông Hai yêu làng sâu sắc nhưng ông đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đặc biệt là đoạn đối thoại giữa ông với đứa con nhỏ:
– “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”
– “ Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
Càng yêu làng bao nhiêu thì cái tin làng Việt gian theo Tây càng khiến ông đau đớn bấy nhiêu. Cũng chính vì lẽ đó mà khi tin dữ ấy được cải chính thì người sung sướng nhất cũng là ông Hai. Ông lại trở về với hình ảnh ông Hai ngày xưa, tươi vui, rạng rỡ và “khoe” về làng của mình.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã đưa người đọc tới nhiều cung bậc cảm xúc. Qua đó ta thấy được một tình yêu làng, yêu nước giản dị mà chân thành, tha thiết.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư