Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích 10 câu đầu của bài thơ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

6 trả lời
Hỏi chi tiết
650
1
0
Lê Thị Thảo Nguyên
02/06/2019 09:04:29
Phải chăng trong bất cứ cuộc chia li nào thì người ở lại cũng là người đau khổ nhất. Nền văn học Việt Nam đã chứng kiến biết bao cuộc chia li trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỉ XVIII, Đặng Trần Côn đã lấy bối cảnh cuộc chia li đầy lưu luyến, bi thương của người phụ nữ phải xa chồng trong thời gian dài, chờ tin chồng ra trận trở về với khao khát hạnh phúc lứa đôi qua khúc ngâm "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ".
Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" đã miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn ở người chinh phụ với khao khát được sống trong tình yêu, trong hôn nhân hạnh phúc gia đình.
Ở 10 câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ khi chờ tin chồng ở nơi chiến trận:
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
"Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ, người phụ nữ bồn chồn, thấp thỏm chờ tin chồng chính là hiện thân của nỗi cô đơn. Nếu tiếng yêu thúc giục nàng Kiều "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thì ở đây, trước hiên vắng người phụ nữ lại "thầm gieo từng bước". Không gian mà thi sĩ gợi ra ở đây chính là "hiên vắng" nhỏ hẹp trước nhà.Nàng lo lắng, đi đi lại lại như muốn gieo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của sự cô đơn, lẻ bóng. Mặc dù xuất hiện với hành động "dạo" thế nhưng những bước chân ấy có chút gì đó nặng nề để "thầm gieo từng bước". Có lẽ, thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ đó đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự được bộc lộ thành những hành động dường như vô thức, nàng buông rèm rồi lại kéo rèm: "Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen." Hành động đó cho thấy người chinh phụ như đang trông ngóng tin tức của chồng ở nơi biên ải xa xôi nhưng nàng đều nhận lại được sự im lặng đến đáng sợ.Dù trong bất cứ tư thế nào thì những tình cảm thương nhớ ấy cũng không khỏi khắc khoải, thường trực trong tâm hồn người chinh phụ.
Hành động "rủ", "thác" ấy lại gợi nhắc đến sự nhớ mong trong vô hạn.Nàng cuốn rèm với sự chờ đợi, mong ngóng con "chim thước" ở "ngoài rèm" sẽ đem đến tin vui cho nàng về người chồng đang chinh chiến nơi chiến trường.Nỗi nhớ của người chinh phụ được bộc lộ qua nhiều chiều không gian khác nhau, không chỉ ở "ngoài rèm" mà cả ở "trong rèm".Thế giới nội tâm của nàng nhuốm màu sắc tâm trạng. Người chinh phụ đã tự vấn mình rằng "Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?". Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, người phụ nữ không biết chia sẻ cùng ai, đành bộc lộ những tâm tư tình cảm đó với một ngọn đèn leo lét "Đèn có biết dường bằng chẳng biết". Nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ bắc cầu "đèn biết chăng- đèn có biết" đã diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian vô tận và không gian tĩnh mịch, cô đơn dường như không bao giờ kết thúc. Đó là câu hỏi tu từ nhưng cũng là lời than thở, tự dằn vặt mình.Ngọn đèn đã chứng kiến và soi tỏ nỗi lòng của người chinh phụ, bởi "đèn" chính là người thức cùng, cùng người chinh phụ giãi bày tâm sự, nhớ mong. Nỗi buồn ấy không thể bộc lộ mà người phụ nữ chỉ muốn giữ riêng cho mình: "Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi". Người phụ nữ cảm thấy cô đơn, trống trải trong chính căn phòng của mình bởi chính không gian chật hẹp, vắng vẻ nơi đây đã làm nàng gợi nhớ đến biết bao kỉ niệm quen thuộc. Thế nhưng để tìm được một người để có thể giúp nàng giãi bày tâm sự, lắng nghe nàng nói quả là một điều không phải dễ dàng.Nàng giữ riêng mình nàng biết, bởi có nói ra cũng đâu có ai hiểu được, đâu có ai đồng cảm với nàng.ó lẽ, chính sự tương tư mong nhớ chồng cả ngày lẫn đêm đã làm cho người chinh phụ phải trằn trọc suốt cả đêm dài. Nàng cảm nhận được từng khoảnh khắc trôi qua, từng cảnh vật trong đêm khuya tĩnh lặng đó là tiếng gà gáy "sương năm trống",là những cành "hòe phất phơ rủ bóng bốn bên". Thế nhưng tiếng gà ấy lại "eo óc" gợi cho ta thấy trong một không gian tĩnh lặng, tiếng gà vang lên tang tóc, tang thương đến chán chường. Từ láy "phất phơ" có tính gợi hình cao cho thấy tâm trạng trông mong, ngóng chờ một chút tin tức về chồng của người chinh phụ

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
doan man
02/06/2019 09:34:05
Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến, đồng thời ngợi ca khát khao hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân gửi tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Đặng Trần Côn cảm thông sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình – người chinh phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy. Nhìn bề ngoài đó là cuộc sống an nhàn thảnh thơi nhưng thực tế người thiếu phụ đang phải sống trong cảnh sống tội nghiệp đáng thương chồng đi biền biệt tuổi xuân phai tàn. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình khó có thể thực hiện được. Ba lần từ “chẳng” xuất hiện là 3 lần nhân vật trữ tình rơi vào sự thất vọng, tuyệt vọng, vô vọng của nỗi buồn đau, cô lẻ.
Người chinh phụ đành trở về thấm thía nỗi vô vọng của mình. Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”… Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với nguyên tác mà còn có những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc dễ hiểu, dễ đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình. Những gắng gượng để vượt thoát khỏi sự cô đơn cũng đi vào tuyệt vọng. Trong cái cô đơn ấy người chinh phụ đã đốt hương để xua đi cái giá băng, gượng soi gương để tìm kiếm hình ảnh nhưng dường như những mong muốn đều không được đền đáp.
Sau trạng thái bế tắc đến cao độ âm điệu của những câu thơ trở nên nhẹ nhõm hơn, câu thơ tươi sáng hơn:
“Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Lòng này hay nghìn vàng là để nói tấm lòng tha thiết trân trọng đáng giá nghìn vàng. Điệp từ “gửi” bộc lộ sự tha thiết, khát vọng mãnh liệt của người chinh phụ những mong được sẻ chia cùng chồng. Nỗi lòng của ngườ chinh phụ gửi đến Non Yên là một địa danh, có tên cụ thể nhưng không ai biết nó ở đâu, cách đây bao xa. Phải chăng đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho sự xa xôi cách trở giữa hai con người, cho sự vô vọng của người chinh phụ, cho sự vô vọng của một tình cảm thủy chung, trọn vẹn được gửi đi mà chẳng thể nhận được hồi đáp. Trong ngổn ngang thắc mắc, nàng lại trở về với bế tắc. Tính từ “đau đáu” gợi nỗi đau nhức nhối, âm ỉ, nỗi nhớ triền miên khôn nguôi của người chinh phụ, gợi lên cả nỗi lo liệu người chồng đang ở biên ải có được bình an, sớm về đoàn tụ. Cảnh vật “cành cây”, “sương”, “mưa” đều thấm đượm nỗi bi ai, sầu khổ, khiến người phụ nữ nhỏ bé càng thêm cô độc, thiểu não.
Nhưng chính sức mạnh ghê gớm nội tại tâm hồn khiến người chinh phụ lại một lần nữa vươn dậy, vươn tới không gian thoáng đạt ngoài kia để tìm cách giải thoát cho tâm hồn mình. Thủ pháp sóng đôi hoa- nguyệt, hoa- nguyệt lặp lại trong câu thơ khi dãi ra, khi lồng vào nhau gợi ngoại cảnh tình tứ. Phải chăng đó là hệ quả của những cảm nhận bị kích động khắc khoải về những ngày tháng ái ân chồng vợ. Thiên nhiên có đẹp biết nhường nào thì chinh phụ lại không tránh khỏi xót đau, khỏa lấp được tâm tư.
Đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” với nghệ thuật khắc họa nội tâm độc đáo, cách sử dụng các từ ngữ, những từ láy, từ ngữ biểu cảm, tác giả đã cho người đọc nhận ra rằng chiến tranh không phải mặt trận để con người lập thân, lập nghiệp, chiến tranh đã tàn phá tâm hồn con người.
0
1
Thanh Y Dao
02/06/2019 09:52:49
Phân tích 10 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ  
Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài muôn thủơ trong các tác phẩm văn học Việt Nam.Nếu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là lời than về số phận bạc mệnh của Kiều thì “Chinh phụ ngâm” của Đặng trần Côn lại là nỗi sầu của người chinh phụ khi phải xa chồng trong thời ki chiến tranh loạn lạc.Với bản diễn nôm rất thành công của Đoàn Thị Điểm “Chinh phụ ngâm ” đã trở thành 1 trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.Đọc tác phẩm này,nhất là đoạn trích “"Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”,chắc chắn ko ai có thể quên đc 10 câu đầu của đoạn trích với nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" vô cùng đặc sắc.Đoạn thơ đã diễn tả nỗi cô đơn buồn tủi trong cảnh khắc khoải chờ chồng của người chinh phụ 1 cách sâu sắc.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một không gian chật hẹp,nơi thềm hiên vắng lặng,nơi mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi người chồng đã đi xa.Bằng cách sử dụng điêu luyện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình,Đặng Trần Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động,thể hiện nỗi sầu của người chinh phụ cũng như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Đúng như nhan đề của tác phẩm,đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của người chinh phụ.Sau khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc khoải :
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen"
Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này,chỉ có tiếng bước chân của nàng ,một mình đối diện với chính mình .Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên nhưng có lẽ tâm trí nàng đang chìm đắm trong miên man.Mỗi bước chân là 1 nỗi nhớ,mỗi bước chân là một nỗi lo,tất cả đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ người chồng đang chinh chiến ở ải xa. Người chinh phụ hết đi đi lại lại , rồi lại buông rèm ,cuốn rèm ko bít bao nhiêu lần…Đây là những động tác,cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà ko hề có mục đích của người chinh phụ . Phải chăng nó chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng mà không biết san sẻ cùng ai :
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi “
Nếu như ở câu trước người chinh phụ ”ngồi rèm thưa” để ngóng đợi tin chồng,thì ở câu thơ này người chinh phụ ngóng con chim thước- mong được bao tin lành nhưng chẳng thấy.Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng,nơi mà nàng đối diện với bóng mình,đối diện với ngọn đèn khuya hiu hắt .Nhưng thật trớ trêu, đền dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác,có biết cũng như ko.câu hỏi tu từ “Đèn có biếtt..chẳng biết”là một lời than thở,là nỗi khắc khoải chờ đọi và hi vọng trong nàng day dứt không yên.Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm , da diết , dằn vặt và ngậm ngùi.nàng quả là một người đáng thương! Hình ảnh ngọn đèn hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường gợi cho người đọc nhớ đến những ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của người thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc :
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn chẳng tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”
Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có ánh sáng ,nó càng làm nổi bật đêm tối mênh mang và nỗi cô đơn dường
như nhân lên gấp bôi trong lòng người thiếu phụ.
Với 4 câu thơ tiếp theo,nhà thơ đã khéo léo dùng thời gi an của thiên nhiên, con người để diễn tả tâm trang khắc khoải chờ mong của người chinh phụ:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phát phơ rủ bóng bốn bên
Tiếng gà eo óc,tiếng trống canh là báo hiệu của canh năm , báo hiệu rằng người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm,mong chờ mòn mỏi.Tiếng gà,bóng hòe ủ rũ càng làm làm cho cảnh vật nơi đây thêm sự vắng vẻ , cô quạnh hoang vắng và đáng sợ.Người phụ nữ như chìm đắm vào trong đêm tối mênh mông,trong lo âu chờ đợi.
Những ngày tháng bên chồng đối với người chinh phụ là một quá khứ tươi đẹp nhưng lại thật ngăn ngủi chóng vánh
Tóm lại,với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình điêu luyện,cảnh mang hồn người cảnh và tình hòa hợp sống động, Đặng Trần Côn đã khắc họa nên hình ảnh người thiếu phụ đang cố gắng thoát khỏi nỗi cô đơn trống trải trong thương nhớ ,mỏi mòn mà không biết chia sẻ cùng ai.
Đoạn thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm “C”hinh phụ ngâm" là tiếng kêu thương của người chinh phụ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh chiến nơi ải xa.Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao chàng trai ra trận và bao nhiêu số phận người phụ nữ phải héo hon chờ chồng Phản ánh hiện thực xã hội này, Đặng Trần Côn đã khẳng định giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm cũng như thái độ cảm thông chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ thời phong kiến .Đúng như Nguyễn Du đã từng viết
“Thương thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
0
1
Quỳnh Anh Đỗ
02/06/2019 10:37:50
Trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, cuộc đời người phụ nữ luôn gắn liền với những đau khổ và bất hạnh. Dù có phẩm cao quý, tốt đẹp đến đâu thì số phận của họ vẫn đầy rẫy những bi kịch. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đời đầy những đau thương, nước mắt của họ chính là tấn bi kịch do chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra. Bài thơ “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” của tác giả Đặng Trần Côn là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua những câu thơ chất chứa tâm trạng và dòng độc thoại nội tâm nhân vật, thi phẩm đã khắc họa nỗi đau khổ cũng như khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về mái ấm gia đình của người chinh phụ trong những tháng ngày xa cách và mong chờ người chinh phu trở về.
Bằng thể thơ song thất lục bát, “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã khắc họa thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình thông qua sự cô đơn và nỗi nhớ thương, trông mong của người chinh phụ trong những tháng ngày người chinh phu ra trận. Trước hết, tác giả đã tập trung khắc họa tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trong những năm tháng lẻ loi:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa thác rủ đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường rằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ đã được tái hiện thông qua hành động lặp đi lặp lại mang tính tuần hoàn. Nàng “gieo từng bước” âm thầm trong hiên vắng, đưa ánh mắt xa xăm hướng ra ngoài để trông ngóng, chờ đợi tin tức tốt lành từ người chinh phu. Cuộc sống của nàng giờ đây tù túng, bế tắc, bó hẹp trong không gian “vắng” và “thưa”. Không nhận được sự hồi đáp từ niềm trông mong, hi vọng tin tức tốt lành về người chồng, nàng mong muốn nhận được sự đồng cảm của từ ngọn đèn, nhưng rồi ngọn đèn leo lét giữa đêm khuya không đủ sức san sẻ và sưởi ấm nỗi lòng cô đơn đến giá lạnh, “bi thiết” của người chinh phụ. Dòng thời gian vô hình cứ trôi đi trong âm thầm, nhưng nàng vẫn cảm nhận được bước đi lặng lẽ đó: “Gà óc eo gáy sương năm trống”. Sự ý thức về thời gian giữa đêm khuya vắng cũng là một trong những biểu hiện của tâm hồn trống trải, khiến nỗi cô đơn như trải dài bất tận cùng “khắc giờ đằng đẵng” và “mối sầu dằng dặc”. Trong không gian vắng vẻ của căn phòng, nàng lại tiếp tục đối mặt với sự hiu quạnh:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan”
Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần đã diễn tả thành công hành động mang tính chất thụ động, gượng gạo của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để lòng mình thanh thản, nhưng lại càng bị cuốn sâu hơn vào bờ vực cô đơn, nàng miễn cưỡng soi gương nhưng khi đối diện với chính mình thì nước mắt lại chứa chan, nàng “gượng gảy phím đàn” nhưng tình cảnh lẻ loi hiện tại khiến nàng e ngại, lo sự, bất an về những điều không hay. Dù cố gắng đến đâu thì người chinh phụ vẫn không thể vượt thoát sự cô đơn đến ám ảnh đang xâm chiếm tâm hồn.
Bằng thể thơ song thất lục bát dân tộc, giọng thơ thống thiết, bi thương kết hợp với các biện pháp tu từ và điển cố điển tích, trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện rõ tài năng miêu tả và khắc họa tâm lí nhân vật của tác giả Đặng Trần Côn. Qua đó, chúng ta thấy được bi kịch trong nỗi cô đơn và nỗi nhớ “thăm thẳm” của những người chinh phụ luôn “đau đáu” trông mong tin tức của người chinh phu nơi biên ải xa xôi.
0
1
Quỳnh Anh Đỗ
02/06/2019 10:37:50
Trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, cuộc đời người phụ nữ luôn gắn liền với những đau khổ và bất hạnh. Dù có phẩm cao quý, tốt đẹp đến đâu thì số phận của họ vẫn đầy rẫy những bi kịch. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đời đầy những đau thương, nước mắt của họ chính là tấn bi kịch do chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra. Bài thơ “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” của tác giả Đặng Trần Côn là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua những câu thơ chất chứa tâm trạng và dòng độc thoại nội tâm nhân vật, thi phẩm đã khắc họa nỗi đau khổ cũng như khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về mái ấm gia đình của người chinh phụ trong những tháng ngày xa cách và mong chờ người chinh phu trở về.
Bằng thể thơ song thất lục bát, “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã khắc họa thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình thông qua sự cô đơn và nỗi nhớ thương, trông mong của người chinh phụ trong những tháng ngày người chinh phu ra trận. Trước hết, tác giả đã tập trung khắc họa tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trong những năm tháng lẻ loi:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa thác rủ đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường rằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ đã được tái hiện thông qua hành động lặp đi lặp lại mang tính tuần hoàn. Nàng “gieo từng bước” âm thầm trong hiên vắng, đưa ánh mắt xa xăm hướng ra ngoài để trông ngóng, chờ đợi tin tức tốt lành từ người chinh phu. Cuộc sống của nàng giờ đây tù túng, bế tắc, bó hẹp trong không gian “vắng” và “thưa”. Không nhận được sự hồi đáp từ niềm trông mong, hi vọng tin tức tốt lành về người chồng, nàng mong muốn nhận được sự đồng cảm của từ ngọn đèn, nhưng rồi ngọn đèn leo lét giữa đêm khuya không đủ sức san sẻ và sưởi ấm nỗi lòng cô đơn đến giá lạnh, “bi thiết” của người chinh phụ. Dòng thời gian vô hình cứ trôi đi trong âm thầm, nhưng nàng vẫn cảm nhận được bước đi lặng lẽ đó: “Gà óc eo gáy sương năm trống”. Sự ý thức về thời gian giữa đêm khuya vắng cũng là một trong những biểu hiện của tâm hồn trống trải, khiến nỗi cô đơn như trải dài bất tận cùng “khắc giờ đằng đẵng” và “mối sầu dằng dặc”. Trong không gian vắng vẻ của căn phòng, nàng lại tiếp tục đối mặt với sự hiu quạnh:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan”
Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần đã diễn tả thành công hành động mang tính chất thụ động, gượng gạo của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để lòng mình thanh thản, nhưng lại càng bị cuốn sâu hơn vào bờ vực cô đơn, nàng miễn cưỡng soi gương nhưng khi đối diện với chính mình thì nước mắt lại chứa chan, nàng “gượng gảy phím đàn” nhưng tình cảnh lẻ loi hiện tại khiến nàng e ngại, lo sự, bất an về những điều không hay. Dù cố gắng đến đâu thì người chinh phụ vẫn không thể vượt thoát sự cô đơn đến ám ảnh đang xâm chiếm tâm hồn.
Bằng thể thơ song thất lục bát dân tộc, giọng thơ thống thiết, bi thương kết hợp với các biện pháp tu từ và điển cố điển tích, trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện rõ tài năng miêu tả và khắc họa tâm lí nhân vật của tác giả Đặng Trần Côn. Qua đó, chúng ta thấy được bi kịch trong nỗi cô đơn và nỗi nhớ “thăm thẳm” của những người chinh phụ luôn “đau đáu” trông mong tin tức của người chinh phu nơi biên ải xa xôi.
0
0
(•‿•)
03/06/2019 12:46:27
Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một không gian chật hẹp,nơi thềm hiên vắng lặng,nơi mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi người chồng đã đi xa.Bằng cách sử dụng điêu luyện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình,Đặng Trần Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động,thể hiện nỗi sầu của người chinh phụ cũng như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Đúng như nhan đề của tác phẩm,đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của người chinh phụ.Sau khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc khoải :
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen"
Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này,chỉ có tiếng bước chân của nàng ,một mình đối diện với chính mình .Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên nhưng có lẽ tâm trí nàng đang chìm đắm trong miên man.Mỗi bước chân là 1 nỗi nhớ,mỗi bước chân là một nỗi lo,tất cả đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ người chồng đang chinh chiến ở ải xa. Người chinh phụ hết đi đi lại lại , rồi lại buông rèm ,cuốn rèm ko bít bao nhiêu lần…Đây là những động tác,cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà ko hề có mục đích của người chinh phụ . Phải chăng nó chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng mà không biết san sẻ cùng ai :
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi “
Nếu như ở câu trước người chinh phụ ”ngồi rèm thưa” để ngóng đợi tin chồng,thì ở câu thơ này người chinh phụ ngóng con chim thước- mong được bao tin lành nhưng chẳng thấy.Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng,nơi mà nàng đối diện với bóng mình,đối diện với ngọn đèn khuya hiu hắt .Nhưng thật trớ trêu, đền dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác,có biết cũng như ko.câu hỏi tu từ “Đèn có biếtt..chẳng biết”là một lời than thở,là nỗi khắc khoải chờ đọi và hi vọng trong nàng day dứt không yên.Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm , da diết , dằn vặt và ngậm ngùi.nàng quả là một người đáng thương! Hình ảnh ngọn đèn hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường gợi cho người đọc nhớ đến những ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của người thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc :
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn chẳng tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”
Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có ánh sáng ,nó càng làm nổi bật đêm tối mênh mang và nỗi cô đơn dường như nhân lên gấp bôi trong lòng người thiếu phụ.
Với 4 câu thơ tiếp theo,nhà thơ đã khéo léo dùng thời gi an của thiên nhiên, con người để diễn tả tâm trang khắc khoải chờ mong của người chinh phụ:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phát phơ rủ bóng bốn bên."
Tiếng gà eo óc,tiếng trống canh là báo hiệu của canh năm , báo hiệu rằng người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm,mong chờ mòn mỏi.Tiếng gà,bóng hòe ủ rũ càng làm làm cho cảnh vật nơi đây thêm sự vắng vẻ , cô quạnh hoang vắng và đáng sợ.Người phụ nữ như chìm đắm vào trong đêm tối mênh mông,trong lo âu chờ đợi.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư