Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đề 1: Phân tích bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu.
Bài làm
Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. "Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại" (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuôn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng" (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ "Xuất dương lưu biệt". Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
"Xuất dương lưu biệt" được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ỷ nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
"Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di."
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thê sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
"Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù".
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
"Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương."
(Tùy viên thi thoại - Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: "Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy..." (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"
Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:
"Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".
("Hịch tướng sĩ" - Trần Quốc Tuấn)
"Nhân vinh tự cổ thủy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh."
(Vân Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn - bách niên - của một đời người đối với cái vô hạn - thiên tài - của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
"Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!"
(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)
Khi non sông đã chất, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà:
"Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học của hoài."
Phan Bội Châu đã dặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
"Ai hữu chi từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…"
Sống như thế là sống đẹp, sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ."
Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:
"Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi."
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong - Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng — ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu.Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
"Xuất dương lưu biệt" là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.
Đề 2: Anh (chị) hãy phân tích bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu để làm sáng tỏ nhận định
Trong cuốn Văn thơ Phan Bội Châu, nhà văn Đặng Thai Mai viết: "Đầu thế kỉ XX này, có những vần thơ, những bài văn đã làm cho người nghe căm hờn, suy nghĩ và phân khởi... "vạch trời kêu mà tuốt gươm ra". Phan Bội Châu là một người dẫn đầu và thành công rõ rệt hơn ai hết về lối thơ ca yêu nước đó ".
(Đặng Thai Mai - Văn thơ Phan Bội Châu - NXB Văn hóa, Hà Nội 1960)
Bài làm
Cuối thế kỉ XIX, phong trào cần vương chống Pháp thất bại. Những phong trào yêu nước mới xuất hiện. Phan Bội Châu là một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới. Cũng như Bác Hồ sau này, Phan Bội Châu không có ý định xây dựng cho mình sự nghiệp văn chương mà dùng văn chương làm phương tiện phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, nhiệt huyết cứu nước đã đốt cháy ngọn lửa văn chương tạo nên thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng với cảm xúc cuồn cuộn, tư tưởng tiến bộ và giá trị nghệ thuật cao. Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu là một trong những bài thơ tiêu biểu cho loại thơ này.
Thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng xuất hiện ở nước ta đầu thế kỉ XX và phát triển thành dòng văn học lớn với những tên tuổi như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế... dòng thơ văn này ra đời nhằm mục đích truyền bá tư tưởng yêu nước cách mạng trong nhân dân, kêu gọi cải cách xã hội để tự cường, giành tự do độc lập cho Tổ quốc. Âm hưởng chung của dòng thơ văn này là hùng hồn, tha thiết nhiều khi bi thiết đầy kích động. Lối viết văn chữ Hán được đổi mới, kinh nghiệm nghệ thuật của thơ ca truyền miệng được phát huy mạnh mẽ, nhiều thể loại có ưu thế trong việc chuyên chở nội dung cách mạng được thể nghiệm... Dù còn bị ràng buộc bởi ý thức và thi pháp văn học trung đại nhưng thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng đầu thế kỉ XX đã có những đóng góp lớn lao cho nền văn học văn hóa và lịch sử nước nhà.
Coi văn chương là vũ khí, Phan Bội Châu có nhiều cách tân đối với loại hình sáng tác mang tính chất tuyên truyền, cổ động và đã đạt được những thành công lớn. Thơ văn Phan Bội Châu luôn trào sôi nhiệt huyết yêu nước và cách mạng đã làm rung động không biết bao nhiêu con tim yêu nước trong đó có không ít người quyết định dấn thân từ việc đọc những vần thơ của ông.
Năm 1905, sau khi cùng Tiểu La Nguyễn Thành thành lập Hội Duy tân, theo chủ trương của tổ chức, Phan Bội Châu chia tay bạn bè sang Trung Quốc và Nhật Bản, tranh thủ sự giúp đỡ của những nước này đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Trước khi lên đường, vào lúc chia tay (trong bữa cơm ngày tết do Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí) Phan Bội Châu đã sáng tác Xuất dương lưu biệt (Để lại lúc từ biệt ra nước ngoài). Bài thơ được viết bằng chữ Hán và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Tôn Quang Phiệt là bản dịch khá thành công tuy vẫn còn đôi chỗ chưa lột tả hết được tinh thần nguyên tác.
Bốn câu đầu của bài thơ nhắc lại quan niệm về "chí làm trai" của các nhà nho xưa với tinh thần khẳng định. Theo đó, khát vọng làm những việc lớn của nhân vật trữ tình cũng được thể hiện một cách sâu sắc. Câu thứ nhất đã được bản dịch nghĩa làm rõ ý: Sinh làm nam nhi phải mong chuyện khác thường. Câu thứ hai có thể được hiểu như một lời tự nhắc nhở, một phản vấn: lẽ nào để trời đất tự vần xoay tới đâu thì tới mà mình là kẻ đứng ngoài, vô can? Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa một tâm niệm: ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích và vì vậy, ta phải làm được một việc gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu thứ tư có tài liệu dịch nghĩa: còn như chuyện ngàn năm thì có người sắp tới. Có thể nói rõ ý hơn là: ngàn năm sau lẽ nào chẳng có người nối tiếp công việc của người trước? Như vậy, hai câu 3,4 cho thấy rõ cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không ỉ lại cho ai. Hơn thế, cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ.
Hai từ "hi kì" (hiếm lạ, khác thường) ở câu thứ nhất cần được hiểu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Trước Phan Bội Châu, đã có nhiều người phát biểu về vấn đề này trong thơ: "Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán / Phá vòng vây bạn với kim ô" (Chim trong lồng - Nguyễn Hữu Cầu); "Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông" (Đi thi tự vịnh - Nguyễn Công Trứ); "Chí làm trai nam bắc tây đông / Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" (Chí anh hùng - Nguyễn Công Trứ). Từ "lạ" trong bản dịch thơ chưa thể hiện ý tứ của hai từ "hi kì" trong nguyên tác.
Cảm hứng và ý tưởng về "chí làm trai" của Phan Bội Châu có phần gần với lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thuở trước nhưng táo bạo và quyết liệt hơn. Nếu theo dõi nhiều sáng tác của Phan Bội Châu chúng ta còn nhận thấy nhà chí sĩ này luôn quan tâm tới việc giáo dục lí tưởng, lối sống cho thanh niên.
Câu phá đề khẳng định một lẽ sống đẹp: "làm trai phải lạ ở trên đời" (Làm trai phải mong có điều lạ) nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, khi nước nhà lâm nguy phải ra tay cứu nước, phải xoay chuyển lịch sử.
Câu thừa đề tiếp tục triển khai cụ thể. Điều lạ ấy chính là việc xoay chuyển "càn khôn", xoay chuyển thời thế, không thể buông xuôi theo số phận, mặc cho con tạo xoay vần. Trong một bài hát nói trước đó, Phan Bội Châu cùng đả từng khẳng định "Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi / Sính thời thế phải xoay nên thời thế". Con người dám đối mặt với cả đất trời cả vũ trụ để tự khẳng định mình. Đó là một tư thế, tầm vóc lẫm liệt, phi thường.
Hai câu 3 và 4 triển khai cụ thể ý tưởng về chí làm trai ở hai câu trên bằng cách khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc. "Tớ" (Trong khoảng trăm năm cần có tớ) ở đây là cái tôi nhà thơ, một cái tôi công dân đầy tính thần trách nhiệm trước cuộc đời. Cuộc thế trăm năm này cần có ta không phải để hưởng lạc thú mà là để cống hiến cho đời, để đáng mặt nam nhi, để lưu danh thiên cổ (muôn thuở há không ai). Đó là một khát vọng chính đáng và cao cả của một con người sống có trách nhiệm với cuộc đời và dám chịu trách nhiệm về mình, rộng hơn là trách nhiệm với non sông đất nước.
Phan Bội Châu sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đen tối của lịch sử nước nhà. Nước mất. Nhà tan, cần vương thất bại. Một bầu không khí u ám bao trùm. Hai câu 5 và 6 thể hiện thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. Câu thứ 5 nói lên nỗi nhục mất nước, nỗi xót đau đốt cháy tâm can nhà thơ, đồng thời cũng khẳng định ý chí sắt thép của những con người không cam chịu sống cuộc đời nô lệ, đắng cay (non sông đã chết, sống thêm nhục).
Trong câu thơ thứ 6, ý tưởng của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên, mang những sắc thái mới của tư tưởng thời đại. Thái độ của nhân vật trữ tình đối với nền học vấn cũ là thái dộ chối bỏ đầy tinh thần cách mạng. Ông dám đối mặt với cả nền học vấn cũ để khẳng định một chân lí: sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì được trong thời buổi nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm lây thì chỉ "ngu" mà thôi. Ông thực sự dè bỉu thái độ "bình chân như vại" cùng kiểu ứng xử "nhắm mắt làm ngơ" trước thực tại, chỉ biết tụng niệm giáo lí thánh hiền trong khi linh hồn của nó thì đã tiêu vong tự đời nào. Phan Bội Châu không có ý phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo nhưng nhận thức được một chân lí mới mẻ như vậy quả là hết sức táo bạo đối với một người đã từng gắn bó với "cửa Khổng, sân Trình" như ông. Có được dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết phải kể đến tấm lòng yêu nước nồng cháy, đến khát vọng tìm con đường đi mới có thể đưa nước nhà thoát cảnh khổ đau. Bên cạnh đó không thể không nói đến ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đang len lỏi vào nước ta. Phan Bội Châu chính là một nhà cách mạng đi tiên phong. Cái mà ông kêu gọi chính là sự thức thời, là tinh thần hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây chính là hệ qui chiếu mà ông đã dùng để đánh giá, nhìn nhận tất cả những vấn đề còn lại.
Bài thơ kết lại với tư thế và khát vọng trong buổi lên đường của nhân vật trữ tình. Các hình ảnh lớn lao kì vĩ (biển Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc) như hòa nhập với con người trong tư thế bay lên. Câu thơ kịch (Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi) không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt thành sự tường thuật, miêu tả thực tế. Do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động, bay lên là quẫy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng. Hình ảnh "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" (Muôn lớp sóng bạc cùng bay theo) thật lãng mạn, hào hùng. Con người dường như được chắp đôi cánh thiên thần, bay lên trên thực tại khắc nghiệt, vươn ngang tầm vũ trụ bao la. Đây là một hình tượng đẹp, giàu chất sử thi.
Giọng điệu thơ chính là giọng điệu tâm hồn nghệ sĩ. Bài thơ có giọng điệu tâm huyết sôi trào cuồn cuộn. Hãy đọc bài thơ từ bản phiên âm chữ Hán, ta sẽ cảm nhận đầy đủ hơn giọng điệu đó. Tác giả sử dụng những dộng từ mạnh, cách ngắt nhịp dứt khoát. Các câu thơ đều là dạng câu khắng định. Ngay cả những câu hỏi tu từ cũng nhằm mục đích khẳng định. Vì thế, lời thơ trở nên rắn rỏi. Những câu hỏi, những từ ngữ tình thổi cùng với những hình ảnh òi vĩ, lớn lao có giá trị biểu hiện cảm xúc õanh liệt, nhiệt huyết sôi trào.
Bài thơ có một hệ thống hình ảnh, khái niệm vô cùng lớn lao, phi thường: nam tử, càn khôn, bách niên tải hậu, giang sơn, hiền thánh, trường phong, Đông Hải, nhất là hình ảnh kết lại bài thơ: "Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi". Một con người mang chí lớn, quyết tâm cao, khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng... Tất sẽ tìm đến những hình ảnh thơ như thế.
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng một người anh hùng tràn đầy ý thức về cái tôi của mình, một cái tôi luôn thao thức về sự tồn vong của giống nòi, dân tộc. Bài thơ được viết theo bút pháp khoa trương của thơ tỏ chí cổ điển rất cần thiết cho nhu cầu tuyên truyền, cổ dộng. Nỗi đau, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng của tác giả thực sự thổi hồn vào câu chữ, hình ảnh khiến chúng vừa mang đậm dấu ấn tác giả vừa có sức lay động thấm thía. Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó hoàn toàn xứng đáng với cất cách của con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó.
Chỉ với 56 âm tiết, bài thơ chứa đựng nội dung tư tưởng vừa phong phú, vừa lớn lao; chí làm trai tiến bộ, khát vọng mãnh liệt, ý thức cá nhân và trách nhiệm cao cả, tư thế hăm hở ra đi hòa với vũ trụ... Tất cả thể hiện một nhiệt tình cứu nước sục sôi, tuôn trào.
Đề 3: Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Bài làm 1
"Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bộí Châu là một nhân vật vĩ đại" (Tôn Quang Phiệt), Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 liềm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông bất tử với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…, Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền vớí hàng trăm bài thơ, hang chục cuốn sách, một số bàí văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. "Phan Hội Châu câu thơ dậy sóng" (Tố Hữu),
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ, Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu nguyện viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại đồng chí bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt) được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩa cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thê sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy viên thi thoại - Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: "Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy..." (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thùy.
Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng". (Trần Quốc Tuấn).
Nhân vinh tự cổ thủy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Vân Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn - bách niên - của một đời người đối với cái vô hạn - thiên tài - của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì dâu!
Phần luận tác giả nói về sống và chết, nói về công danh.
Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Khi non sông đã chất, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà.
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học của hoài.
Phan Bội Châu đã dặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
Ai hữu chi từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…
Sống như thế là sống đẹp, sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.
Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:
Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong - Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng — ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu.Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.
Bài làm 2
Phan Bội Châu (1867 — 1940) là lãnh tụ kiệt xuất của các phong trào Duy tân, Đông du, Việt Nam quang phục Hội đầu thế kỉ XX. Ông là "bậc anh hùng, vị thiên sứ, được 25 triệu đồng bào tôn kínhI (Nguyễn Ái Quốc). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng hết lời ca ngợi Phan Bội Châu: "Miệng giạng cuốc vạch trời kêu giật một, giữa tầng không mù cuốn mây tan; Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy măt giấy mưa tuôn sấm no".
Năm 1905, mờ đầu phong trào Đông du, Phan Bội Châu xuất dương sang Trung Quốc, Nhật Bản tìm đường cứu nước. Trong không khí chia tay với các đồng chí trong Hội Duy Tân, Phan Bội Châu sáng tác bài "Xuất dương lưu biệt" (Lời để lậi khi chia tay để ra nước ngoài) bằng chữ Hán. Đây là bản dịch của Tôn Quang Phiệt:
Phiên âm:
"Sinh vi nam tử yếu hi kì
Ư bách niên trung tư hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ,
Giang sơn tử hỉ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si,
Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tê phi".
Dịch thơ:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời,
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi".
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú, Đường luật, luật bằng vần bằng. Mở đầu bài thơ, tác giả nêu lên quan niệm về chí nam nhi: "Sinh vi nam tứ yếu vi kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di". Tôn Quang Phiệt dịch là:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời".
Phan Bội Châu nêu lên quan niệm vé chí làm trai được các nhà nho trứ danh đều đồng tình. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ "Chí nam nhi" cũng từng nói: "Thông minh nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kì". Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kì tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp bể:
"Há để càn khôn tự chuyển dời".
Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. "Há để càn khôn tự chuyển dời" là câu hỏi tu từ vừa khẳng định, vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, vế sự tác động cùa con người đối với vũ trụ như vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ làm thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi bày tỏ quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói vể trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: "ưbách niên ti ling tu hữu ngã – Khởi thiên tái hậu cánh vô thùy". Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?"
Trong một nền vãn học phi ngã (tôi) mà hiện lên một chữ ngã sừng sững, phải nói là "kỉ" (lạ)!
"Ư bách niên trung tu hữu ngã".
Nhận thức vể sự hiện hữu của cái tôi, trách nhiệm của cái tôi đối với thời đại như vậy chảng khác nào một ngọn lừa giũa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái tôi huởng lạc mả là cái tôi hành động, cái tôi tham gia vào sự "chuyển dời" của "càn khôn. "Gĩữa cuộc sống tối tảm của đất nước lúc đó, có dược một ý thức về cái tôi như thế, quả lả cứng cỏi, là đẹp vô cũng, cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cửu nước quả lá cẩn thiết, là cao cả vô cùng" (Nguyễn Đình Chiểu).
Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đạt ra câu hỏi "Khởi thiên tải hậu cánh vô tùy?" (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi, nhưng thật ra là để khẳng định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu tác động vào tâm can người ta, kích thích và thức trách nhiệm của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên; chuyển dời xã hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, tác giả càng riết róng hơn vê mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sông thực tại với sách vở của Thánh hiền
"Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết sổng thêm nhục
Hiển thánh còn dùu học cũng hoài).
Tác giả sử dụng thủ pháp nhún hoá "non sông đã chết" khiến ta cảm thấy "giang sơn" (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng;
"Non sông đã chết sống thêm nhục".
Nhiều nhà nho thức thời cũng đã nói đến nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có nhà nho nào nói một cách triệt để, thống thiết như vậy, Đem sự Hốiig chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì khống còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu nhà ái quốc vĩ đại.
Sách vở của Thánh hiên cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ:
"Hiển thánh còn đâu học cũng hoài".
Câu thơ nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn " Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc sĩ !", (Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi). Viết như vậy thì đúng như cụ Huỳnh Thúc Kháng nói "đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nồ". Không nên hiểu là cụ Phan phủ định sách của Thánh hiền, mà nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của Thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Mà có ông Khổng, ông Mạnh, ống Lão nào dạy các đệ tử ngồi "tụng" sách của quý vị trong khi nước mất, dân nô lệ đâu?
Tóm lại, từ quan niệm sống "Ư bách niên trung tu hữu nghị trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thí phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề "Xuất dương lưu biệt":
"Nguyện trục trưởng phong Đông hái khử,
Thiên trùng bạch lãng nhất tể phì".
(Muôn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xoá, lạ là không vỗ vào bờ mà "nhất tề phi" (cùng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thi si mà cũng là nhà cách mạng.
Muốn hiểu được nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang trước tác của cụ thì tốt hơn hết là đọc bài thơ "Xuất dương hai biệt". Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái tôi đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chí sĩ muốn cứu dân cứu nước.
"Mượn Đông du thâm hỏi bạn đồng tâm;
Hương Cảng, Hoành Tân, lỏỉ len đường mới.
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cẩm quyển trông gió cũng gai ghê;
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói".
Đấy là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh của cả hai cụ Phan, hai tâm hổn yêu nước lừng danh trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, giai đoạn đẩu của thế kỉ XX này.
Đề 4: Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ " Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu.
Bài làm
Xuất dương lưu biệt không những là một bài thơ hay, mà còn là một mốc quan trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sôi nổi cùng thơ văn cổ động lòng yêu nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.
Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước còn biết bao khó khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hạnh phúc được vẫy vùng. Sau một thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả, Phan Bội Châu đã trăn trở suy tư để tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Đến năm 1905 ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:
Làm trai há phải lạ trên đời.
Há đề càn không tự chuyền dời.
Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu
Hay trong thơ của Nguyễn Công Trứ.
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.
Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã là con ngưòi sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam nhi cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ của Phan Bội Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào để trời đất chuyển vần lấy sao. Nghĩa là Phan Bội Châu đã thoát ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Xưa kia người anh hùng tiết tháo Đặng Dung chua chát nhận ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố quyết định nên sự thành bại, chứ không phải do tài năng của bản thân:
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
(Gặp thời thì anh hùng thật, người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng / vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).
Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ông đặt con người ngang tầm với càn khôn (đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thì cứ gì con người không xoay vần được càn khôn. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc do con người, nhưng thành công là bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập chuyện thành bại ở đây nhưng ý chí dám xoay lại càn khôn thì không chỉ là ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên mệnh là bước đột khởi để người chí sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của mình. Sau khi so mình với càn khôn, tác giả lại so mình với đồng loại:
Ưu bách niên trung trí hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?).
Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuất chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyễn Công Trứ.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Châu không coi mình là duy nhất.
Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hở với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự đổi mới của tư tưởng nhận thức.
Non sông đã chết sống thèm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận của mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xúng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyễn Khuyên hay Tú Xương:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Hay:
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi tong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi.
Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:
Muốn vượt biển đông theo cách gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi).
Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên đường hoạt động) là đối tượng để mình đua sức, đua tài.
Hai câu thơ cuối thể hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thể hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do của các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.
Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á - tê - á - ca), sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muốn hát vang chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc — Hồ Chí Minh.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |