LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.212
0
0
Trần Đan Phương
01/08/2017 03:19:40
Đề bài: Phân tích truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao
Bài làm
Ai làm cho khói lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li ;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
1. Giống như âm điệu lời hát ru này, trong các sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, những trang viết về đời sống người trí thức nghèo thường ướt đẫm nước mất. Đọc trang văn của ông, có cảm giác không phải ông đang "viết văn", mà như đang lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm tâm hồn mình, rồi lấy nước mắt chính mình mà viết ra, kể ra những bi kịch đau đớn của đời mình và của bạn bè mình.
Đời thừa là một trường hợp tiêu biểu cho những trang viết như thế. Ta dường như đồng thời có thể lắng nghe từ truyện ngắn này âm điệu của nhều tiếng nói pha hoà vào nhau : tiếng nói của khát vọng, tiếng nói của tình thương và cả tiếng nói của nổi đau...
Mọi khát vọng cao đẹp của người trí thức nghèo - thường là nhà giáo, nhà văn - trong sáng tác của Nam Cao, suy cho cùng và nói một cách giản dị, là được sống và viết sao cho thật sự đàng hoàng, tử tế. Nhưng cái khát vọng rất đẹp mà cũng rất chính đáng, bình dị này hoá ra lại là quá cao siêu, xa vời trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam thời Nam Cao. Nhân vật văn sĩ Hộ trong Đời thừa là hiện thân đầy đủ, sinh động cho khát vọng và nỗi đau ấy.
Cả một thời trai trẻ sôi nổi, bồng bột, "rất đáng yêu" của mình, chàng văn sĩ này luôn ôm ấp trong lòng một giấc mộng văn chương đẹp : suốt đời anh sẽ "chỉ viết một cuốn sách thôi", nhưng cuốn đó phải "đoạt giải Nô-ben” về văn học ; nó sẽ "được dịch ra hàng trăm thứ tiếng", sẽ "làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời" (Xin hiểu rằng : với Hộ, cũng như với Nam Cao, cái tác phẩm đoạt giải Nô-ben văn học này, không hề là hình ảnh của một thứ hư danh hay ảo vọng viển vông của tuổi trẻ kiêu căng, trái lại, là biểu tượng đầy đủ cho một khát vọng chính đáng, cao đẹp, đáng được nâng niu, trân trọng).
Khát vọng ấy đã chuyển thành một niềm đam mê cháy lòng mà suốt một thời, Hộ đã từng ngày, từng giờ cố vượt lên chính mình, vượt lên trên hoàn cảnh, để mà theo đuổi, thực hiện. Gương mặt tinh thần của Hộ, đúng như Nam Cao đã giới thiệu, là gương mặt một nhà văn "say mê lí tưởng" : "Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả ; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa".
Một con người như thế - một người yêu văn chương, say cái đẹp, tôn thờ nghệ thuật như một thứ tôn giáo, giàu đam mê, nghị lực và rất tự tin - không thể là một người tầm thường, bốc đồng, viển vông.
Thế nhưng, giấc mộng văn chương đẹp của chàng văn sĩ này đã vấp phải một lực cản lớn : gánh nặng gia đình, áo cơm. Va đập nặng nề với hiện thực đời sống nghèo túng, mòn mỏi, cái "hoài bão lớn" kia đã dần dần tiêu tan thành mây khói. Hoá ra, cuộc sống gia đình có không ít "những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí, nhưng không thể không nghĩ tới". Hộ "phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng", "viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc", "Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ vãn bằng phẳng và quá ư dễ dãi" ; "chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương",... Và anh giật mình, chua chát nhận ra "một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa", trái lại, đã thành "một kẻ vô ích, một người thừa".
Đó là bi kịch của một người buộc phải đi ngược lại quan niệm, mơ ước của mình. Danh dự của con người trong tư cách một nhà văn chỉ được bảo đảm bằng bút lực và khả năng khơi nguồn sáng tạo của anh ta. Bi kịch là ờ chỗ, không phải ai khác, mà chính anh ta đã gần như phải tự minh bôi đen dần danh dự của minh, tự mình phải xoá bó dần hình ảnh tốt đẹp và tên họ kiêu hãnh của minh trong tâm trí người đời bằng những sáng tác hời hợt, vô vị, nhạt nhẽo.
Nhưng Hộ không chỉ là một nhà văn, anh còn là một người chồng, người cha, trụ cột gia đình. Nghĩa là, không phải một người hoàn toàn có quyền sống cho riêng mình, toàn tâm toàn ý theo đuổi đam mê, khát vọng của chính mình. Hơn thế, Hộ lại muốn làm một người chồng, người cha tốt. Phàm đã là "người" thì, theo Hộ, "không thê bỏ lòng thương". Trung thành với quan niệm này, Hộ đã sống như một người nặng tình bác ái, giàu lòng thương. Cứ xem cái cung cách anh săn sóc vợ, "hôn hít" các con, hay cái cung cách anh lặng lẽ nhìn ngắm Từ - người vợ hiền thục của anh - đầy thương cảm trong khi nàng ngủ, thì cũng đủ thấy rõ điều này.
Hơn thế, Hộ còn xem lòng thương như một nguyên tắc, một đạo lí sống. Anh có thể hi sinh nhiều thứ, kể cả tiếng tăm, danh dự, nhưng không thể để mất "lòng thương". Còn giữ được "lòng thương" thì "còn được là người". Mất nó thì trở thành "một thứ quái vật". Với Hộ, "Kẻ mạnh không phải là kể giẫm lên vai kẻ khác để thoa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình." Oái oăm thay, chính Hộ là người buộc phải vi phạm cái nguyên tắc "không thể bỏ lòng thương ấy". Khi buồn đời, anh cũng bốc đồng, quá chén như ai và khi đã quá chén thì cũng dễ dàng trở thành một người chồng nhẫn tâm, độc địa như ai. Nhận thức càng rõ điều đó, Hộ càng lâm vào tình trạng đau đớn, dằn vặt, càng mặc cảm nặng nề hơn. Đó là bi kịch chết mòn lòng thương, nhân cách.
2. Nhưng bi kịch tinh thần đau đớn nhất của Hộ, thực ra, không phải chỉ đơn thuần là chuyện tan vỡ "mộng đẹp" hay chuyện buộc phải từ bỏ "lòng thương".
Cuộc đời đã đặt anh trước một tình huống lựa chọn phi lí, nghiệt ngã : hoặc là mộng đẹp (văn chương), hoặc là tình thương, trách nhiệm (gia đình).
Bi kịch đau đớn nhất của Hộ chính là chỗ này. Dù trong tư cách nào, Hộ cũng nâng niu quý trọng lòng thương. Là người, Hộ không thể bỏ lòng thương đã đành, là nhà văn, anh lại càng không thể từ bỏ nó. Bởi vì, tác phẩm văn chương "thật có giá trị", theo anh, phái "ca tụng lòng thưong tinh bác ái, sự công bình,...", phải "làm người gần người hơn". Thế mà trên thực tế, dù lựa chọn văn chương hay gia đình thì rốt cuộc Hộ cũng buộc phải từ bỏ "lòng thương", và trước sau cũng sẽ trở thành một thằng "bất lương" hay một kẻ “khốn nạn" mà thôi. Thực ra, với Hộ, danh dự, hiếu theo nghĩa đầy dù nhất, chi có thể làm nên khi có đủ cả danh dự làm người và danh dự nhà văn. Nếu như trong tư cách nhà vãn, tìm tòi, sáng tạo là danh dự, thì trong tư cách con người, lòng thương, thái độ quý trọng con người cũng trở thành danh dự. Làm sao để có thể làm một người chủ gia đinh đàng hoàng, tử tế mang lại được niềm vui, hạnh phúc cho vợ con mình, một khi anh là nhà văn hạng bét ; sống bằng nghề văn, nhưng trong văn chương cũng như trong xã hội, anh thực chất chỉ là "một kẻ vô ích", "một người thừa" ? Làm sao có thể bằng lòng hãnh diện với một sự nghiệp văn chương, một khi mà dẫu có đánh đổi tất cả giá trị của sự nghiệp cao quý ấy, thì Hộ cũng "không nuôi nổi vợ con" mình ?
Mâu thuẫn, xung đột nội tâm ở Hộ đã nảy sinh từ tình huống lựa chọn nghiệt ngã, phi lí này. Không ai có thể giải quyết thay cho Hộ được. Chính anh phải tìm cách giải quyết lấy thôi. Bởi vì, ở đây mâu thuẫn của đời sống xã hội đã trở thành mâu thuẫn của cá nhân người trí thức nghèo, mâu thuẫn "bên ngoài" đã trở thành mâu thuẫn "bên trong".
Nhưng giải quyết bằng cách nào ? Câu trả lời thật không đơn giản. Nó là cả một bài toán khó. Và, Hộ đã loay hoay tìm cách giải quyết bài toán số phận ấy, nhưng thực tế, bao giờ anh cũng hầu như thất bại.
Có những lúc Hộ đã lầm tưởng rằng : anh có thể điều hoà mâu thuẫn này bằng cách, tạm gác giấc mộng đẹp cùng sự nghiệp văn chương lại, "đành phí một vài năm để kiếm tiền", chăm lo cho cái gia đình khốn khổ của mình nhất thời tạm ổn dã. Nhưng mà giải pháp này đã nhanh chóng phô bày tính chất không tưởng của nó : việc viết văn "vội vã" để "kiếm tiền" đã làm cho "một con người rất đáng yêu" tự đánh mất mình, thành một kẻ "đê tiện", "bất lương".
Lại có những lúc, nhất là khi quá chén, Hộ đã lầm tưởng rằng : mọi nguyên nhân nỗi khổ đau, bất hạnh của đời anh chính là gánh nặng gia đình, là người vợ hiền từ và những đứa con đáng yêu kia. Anh muốn thoát bỏ gia đình, mà không được. Bế tắc và buồn chán cao độ, anh đã tìm đến bia, rượu để giải sầu, trốn vào hơi men và phũ phàng trút giận vào người vợ đáng thương của mình trong những cơn chếnh choáng. Để rồi mỗi khi tỉnh rượu, anh lại khổ sở nhận ra ràng mình không nỡ lòng và cũng không đủ "ác", đủ "tàn nhẫn" dứt tình, bỏ mặc vợ con. Những lúc ấy anh đã tự mắng nhiếc mình là "một thằng... khốn nạn".
Khốn khổ và đáng thương thay cho một chàng văn sĩ nghèo, một người chồng, người cha nghèo, giàu lòng thương nhưng cũng đầy bán khoăn mặc cảm về nhân cách như Hộ. Mộng đẹp tan vỡ, đạo sống đẹp cũng không thể thực hiện, người trí thức nghèo của Nam Cao tất yếu lâm vào tình trạng sống "thừa", "chết mòn" với những bi kịch tinh thần đau đớn.
Mâu thuẫn lồng vào mâu thuẫn, nỗi đau hoà vào nỗi đau. Dường như đối với Hộ, mất danh dự làm người trong tư cách nhà văn thì cũng mất luôn danh dự làm người trong tư cách một người chồng, người cha ; và ngược lại, không còn đủ tư cách làm người chồng, người cha thì cũng mất luôn tư cách làm một nhà văn danh giá. Trí thức, hơn ai hết, là những người trọng danh dự. Bi kịch của Hộ càng lớn khi ý thức về nỗi đau mất danh dự càng rõ rệt, dầy đủ.
3. Những bi kịch đau đớn như thế, Nam Cao hầu như đã từng nếm trải cả. Thách thức còn lại, lớn nhất đối với ông khi viết Đời thừa có lẽ là ở hiệu quả của cách viết : viết làm sao để có thể khơi sâu vào "cõi thầm kín" của nhân vật, sao cho câu chuyện vẽ cuộc dời của nhà văn Hộ cùng những bi kịch tinh thần đau đớn của anh, của những người như anh, trở thành một thứ tiếng nói cất lên từ cõi riêng tư thầm kín nhất, một thứ tiếng nói bên trong...
Ông đã vượt qua thách thức này như thế nào ?
Là người hiểu bi kịch và nỗi đau của người trí thức nghèo như hiểu bi kịch và nồi dau của chính mình, viết Đời thừa, Nam Cao gần như đã nhập thân vào nhân vật mà nói thay tiếng nói đau thương khắc khoải, dằn vặt, u uất trong tâm hồn họ.
Cách trần thuật của Nam Cao khá linh hoạt, biến hoá. Ông kể lại những chuyện thường ngày của Hộ, với nhiều điểm nhìn, góc nhìn khác nhau, khi thì bằng ngôn ngữ người kể chuyện, khi thì bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật. Đặc biệt nhà văn đã khéo léo nương theo dòng ý thức của các nhân vật mà kể, dẫn người đọc thám hiểm vào thế giới bên trong, và làm cho truyện ngắn có nhiều đoạn đậm sắc thái trữ tình - triết lí.
Chẳng hạn, đây là đoạn kể theo ngôn ngữ và điểm nhìn của người kể chuyện (ẩn ngầm) : "Ít lâu nay, mỗi lần ra đi. Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường ; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết".
Đây là đoạn người kể chuyện kể theo theo điểm nhìn của nhân vật Từ :
"Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu ? Nhưng Từ biết làm sao được ? Đã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi."
Đây là đoạn người kể chuyện kể theo điểm nhìn của nhân vật Hộ :
"Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Đầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi ! Trông Từ nằm thật đáng thương ! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người ! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng : một đôi lúc, nếu nhìn kĩ thì Từ khó mặt lắm. Đột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao ? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lấm. Da mặt Từ xanh nhợt ; môi nhợt nhạt ; mi mắt hơi tim tím và xung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại".
Theo đó, cách nhìn trở nên đa diện hơn, để cho câu chuyện cũng như nhân vật chính cũng lấp lánh ánh sáng từ nhiều phía hơn, sắc thái trữ tình cũng đậm hơn.
Tuy vậy, nhiều hơn cả vẫn là cách kể theo điểm nhìn của nhân vật Hộ. Khi đó, ông hoặc nương theo tâm trạng, cảm xúc của nhân vật mà tạo ra chất giọng trữ tình:
"Khốn nạn ! Khốn nạn ! Khốn nạn thay cho hắn ! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn ! Hắn chính là một kẻ bất lương !".
Hoặc nương theo những trải nghiệm của nhân vật mà tạo nên chất giọng triết lí :
"Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình".
Hoặc là ông sục vào kí ức (độc thoại nội tâm), lặng lẽ, tỉnh táo phán xét và kết hợp triết lí với trữ tình. Chẳng hạn :
"... Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi ! Hắn đã viết những gì ? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nsuồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm ! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình ?
Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chí những lo cơm áo mà đủ mệt ? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư ? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hi sinh như người ta vẫn nói ư ?".
Cũng phải nói thêm rằng : không phải ngẫu nhiên, mà trong truyện ngắn Đời thừa, những đoạn văn mang sắc thái triết lí cũng nhiều như những đoạn văn mang sắc thái trữ tình, đều chiếm một tỉ lệ đáng kể so với lời người kể chuyện và thường đan xen với nhau một cách rất tự nhiên.
Bởi vì, trữ tình, triết lí hoặc sự kết hợp giữa trữ tình với triết lí ở đây đều góp phần làm nên một tiếng nói bên trong, tự đánh thức lương tri hoặc được soi sáng bói lương tri nhân vật. Lương tri ấy - cũng chính là lí tưởng nhân văn trong đời sống và trong nghệ thuật - có thể làm cho nhân vật hoặc đau đớn, mặc cảm, hoặc rạo rực kiêu hãnh. Đó là những suy tư triết lí hoặc mang quan điểm sáng tác dưới hình thức các "tuyên ngôn nghệ thuật", hoặc mang quan niộm về danh dự, tư cách làm người, cách ứng xử sao cho ra một con người của Nam Cao. Đó cũng là nhũng điều mà văn sĩ Hộ từng đắc ý khắc cốt ghi tâm.
Một mặt, là một nhà văn có lí tưởng, Hộ ngẫm nghĩ nhiều và khá sâu sắc về giá trị của một tác phẩm văn chương đích thực, mang tầm nhân loại ("ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình", "làm cho người gần người hơn",...). Anh cũng đòi hỏi cao về tính độc đáo, sáng tạo của sáng tác văn chương ("khơi những nguồn chưa ai khơi", "sáng tạo những cái gì chưa có",...). Mặt khác, trong tư cách người chồng, người cha, Hộ cũng luôn băn khoăn, ngẫm nghĩ về tình thương, trách nhiệm, danh dự của mình trong khi gánh vác việc gia đình ("kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình"; hắn "không thể bỏ lòng thương", "hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ con thì còn mong làm nên trò gì nữa ?", V.V.).
Cách xử lí thời gian của Nam Cao trong Đời thừa cũng thú vị, tự nhiên, sáng tạo. Thời gian hiện tại được kể lại chỉ trong khoảng một ngày một đêm (từ sáng hôm trước đến sáng hôm sau) nhưng thời gian quá khứ được kể lại thì không biết chính xác bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, chỉ biết là rất dài.
Những sự kiện thuộc về hồi ức được kể dồn vào trong khoảng hai lần "ngẩng đầu lên nhìn Hộ" (lần thứ ba và lần thứ tư) cũa Từ.
Mạch truyện bắt đầu từ hiện tại :
"Từ ngửng mặt lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói, nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Đôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Đôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trổng khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ...
Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu [...]."
Sau đó, mạch truyện miên man theo dòng hồi ức của Hộ và Từ (khoảng bốn trang), thuật lại rất nhiều kỉ niêm, sự việc vui buồn, nhiều hành vi cao đẹp cùng những lầm lỡ, bế tắc (từ lúc Hộ còn là "một người rất đáng yêu", đến lúc anh "chẳng còn được là mình nữa").
Rồi lại quay về hiện tại :
"[...] Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói, lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.
Nhưng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên.[...]".
Và cứ thế kể về hiện tại cho đến dòng cuối cùng của tác phẩm.
Lối kết cấu và cách tạo mạch lạc như vậy khiến cho truyện ngắn tuy chỉ là một khoảnh khắc, một "lát cắt" nhỏ của đời sống, nhưng vẫn bao quát được cả một quãng đời, và cũng giúp tác giả dễ dàng khơi sâu vào bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật.
Như cái tên của nó, Đời thừa là chuyện đời buồn tủi, ngậm ngùi của một văn sĩ nghèo sống "thừa" bất đắc dĩ. Nam Cao, qua truyện ngắn này, đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với tình trạng "chết mòn", "sống thừa" của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, đồng thời cũng rung chuông kêu gọi giã từ cái xã hội đã đẩy con người lâm vào tình trạng bi kịch tinh thần đau đớn như thế.
Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, truyện ngắn Đời thừa là tác phẩm thành công đặc sắc, mang đậm dấu ấn những trang đời Nam Cao cùng với khát vọng, tình thương và nỗi đau sâu thẳm của ông.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tôi yêu Việt Nam
06/08/2017 18:45:59
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề pghiệp, có hoài bão xây dựng được mội tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình. Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn”. Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình.
Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khổ cả về vật chất và tinh thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự. Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương.
Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay:
« … Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỉ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế?”
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, mà “Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau dớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”

Phân tích truyện ngắn Đời thừa - Nam Cao
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề”, phải am hiểu về kĩ thuật, phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc v.v… Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong” là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao những nguời cầm bút chì viết được những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, “diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”, chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa. Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời thừa theo một nghĩa xác đinh. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã hội. Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn.
Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, “độc thoại bên trong”. Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì những sụy nghĩ chân thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp, khát khao một cuộc sống trong đó con người biết thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhốp, mong viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và, cũng như Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt chuyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Có thể nói nhân vật trong Đợi thừa là một nhân vật - tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra.
Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.
GS NGUYỄN VĂN HẠNH

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư