Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết bài văn nghị luận đánh giá chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Giấc mơ ông lão vườn chim của tác giả Anh Đức

viết bài văn nghị luận đánh giá chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Giấc mơ ông lão vườn chim của tác giả Anh Đức
2 trả lời
Hỏi chi tiết
87
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Truyện ngắn "Giấc mơ ông lão vườn chim" của tác giả Anh Đức là một tác phẩm đầy tinh tế và sâu sắc về tình cảm con người và thiên nhiên. Tác giả đã khéo léo kết hợp giữa yếu tố huyền bí và tâm linh để tạo nên một câu chuyện đầy ấn tượng và ý nghĩa.

Chủ đề chính của truyện là về sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, qua đó thể hiện sự tôn trọng và yêu thương đối với môi trường sống. Ông lão vườn chim không chỉ là một người trồng cây, chăm sóc chim mà còn là người hiểu rõ về tâm hồn của chúng. Nhờ vào tình yêu và sự hiểu biết đặc biệt này, ông đã có thể tạo ra một môi trường sống lý tưởng cho chim và cây cối.

Nghệ thuật của tác giả được thể hiện qua cách viết tinh tế, lôi cuốn và sâu sắc. Anh Đức đã sử dụng ngôn ngữ mượt mà, hình ảnh sinh động để tạo nên một không gian truyện đầy màu sắc và huyền bí. Những tình tiết trong truyện được xây dựng một cách logic và nhẹ nhàng, tạo nên một câu chuyện lôi cuốn và đầy cảm xúc.

Từ "Giấc mơ ông lão vườn chim" không chỉ là một câu chuyện giải trí mà còn là một bài học về tình yêu thương và sự hiểu biết đối với thiên nhiên. Tác giả đã thành công trong việc truyền đạt thông điệp nhân văn và ý nghĩa sâu sắc qua câu chuyện ngắn này. Đó chính là điểm đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm này.
1
0
Nguyên
30/04 19:47:24
+5đ tặng

Truyện ngắn "Giấc mơ ông lão vườn chim" của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một tác phẩm văn học mang tính triết học sâu sắc và đầy cảm xúc. Qua câu chuyện về cuộc sống đơn giản nhưng đầy ý nghĩa của ông lão vườn chim, tác giả đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình người, ý thức sống và giá trị của những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống.

Trong tác phẩm, ông lão vườn chim là một nhân vật đặc biệt, nhờ vào sự yêu thương và chăm sóc cho những chú chim còn non yếu, ông đã tạo ra một không gian trong lành và hạnh phúc. Ông không chỉ là một người trông nom cho các loài chim, mà còn là người hướng dẫn cho những người trẻ tuổi hiểu được giá trị của tình người và sự tôn trọng đối với mọi sinh vật.

Một điểm nổi bật trong "Giấc mơ ông lão vườn chim" chính là sự sáng tạo trong việc kết hợp giữa hành động thường nhật và sự tương tác giữa con người với tự nhiên. Tác giả đã mô tả rất chi tiết và sinh động về cuộc sống của các loài chim, từ việc xây tổ, ấp trứng cho đến việc nuôi dưỡng con non. Những hình ảnh này không chỉ làm cho câu chuyện trở nên sống động mà còn gợi lên trong độc giả sự ngưỡng mộ và trân trọng đối với vẻ đẹp của tự nhiên.

Ngoài ra, "Giấc mơ ông lão vườn chim" cũng là một tác phẩm nghệ thuật qua cách viết lời và kỹ thuật diễn đạt của tác giả. Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng ngôn ngữ đơn giản, gần gũi với người đọc, nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc. Cách viết của ông không chỉ truyền đạt được thông điệp một cách rõ ràng mà còn khiến cho độc giả cảm thấy thấm thía và đồng cảm với những cảm xúc của nhân vật.

Tóm lại, "Giấc mơ ông lão vườn chim" không chỉ là một câu chuyện đẹp về tình người và tình yêu đối với thiên nhiên mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa và sâu sắc. Tác phẩm này chắc chắn sẽ để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả và làm cho họ suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống và giá trị của tình người.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
dũng
30/04 22:50:17
+4đ tặng

“Ông lão vườn chim” trích trong truyện ngắn “Giấc mơ ông lão vườn chim” của nhà văn Anh Đức. Từ cảnh vật đến con người, từ giọng điệu đến cách ứng xử đều thấm đẫm màu sắc Nam Bộ, thể hiện một phong cách kể chuyên trầm tĩnh, thiết tha.
Gấp trang văn lại, ta vẫn còn nghe một tiếng nói dữ dội, quyết liệt, tiếng nói của một con người đã đổ nhiều máu và nước mắt: “Tao đã già, nhưng chưa đến nỗi đâu. Tao sẽ cho tụi bay biết tay !...”. “Tao” là ông Tư vườn chim. “Tụi bây” là Mỹ - Ngụy, lũ giặc đang đốt rừng, tàn phá quê hương.

Ông Tư vườn chim, nhân vật chính của truyện. Đã ngoài 60 tuổi, gần 40 năm gắn bó với vườn chim tại góc rừng U Minh hạ, miền giáp biển Hòn Đá Bạc, một nơi “thuỷ đã tận, sơn đã cũng”. Chẳng có họ tên quê quán. Cuộc đời ông trôi dạt kiếm sống. Cái tên ông Tư vườn chim mà bà con quanh vùng gọi ông cho thấy một con người đã nếm trải nhiều bất hạnh, cay đắng.

Ông Tư quắc thước, khắc khổ. Da “đen đúa”, luôn ở trần, đầu buộc khăn xước.

Cái quần ông mặc, chẳng ngắn mà cũng chẳng dài. Tấm lưng “đen thủi và nhăn nheo”. Ngoại hình ấy cho thấy ông lão quá nghèo khổ, trải qua nhiều nắng gió vất vả.

Ông Tư vườn chim đã mang biết bao nỗi đau, nỗi hận ở đời. Cái vườn chim của vợ chồng ông với bao công sức mồ hôi và hy vọng chỉ trong nháy mắt đã bị tên hội đồng bên Phong Thạnh cướp trắng tay ! Vợ chết. Chỉ mấy tháng sau, đứa con trai độc nhất của ông đi bộ bội hy sinh trong trận xẻo Rô. Con dâu ông bị lũ ác ôn, tay sai của Mĩ - Diệm bắt được khi chị đi tiếp tế cho anh em cán bộ. Chúng đã mổ bụng chị tại vườn chim ! Nỗi đau khổ của ông Tư không thể nào nói hết.

Từ thân phận làm thuê, bị áp bức, ông Tư đã trở thành người “quản thủ” vườn chim. Ông được hồi sinh, được đổi đời. Vườn chim của ông Tư là chỗ đi về, là nơi nương tựa của cán bộ thời bí mật, là nơi lui tới của anh em giải phóng. Ông Tư yêu rừng, yêu dòng kinh bằng tình yêu máu thịt. Ông yêu vườn chim bao nhiêu thì ông gắn bó với cách mạng bấy nhiêu ! Vì đã trải qua nhiều cực nhọc, nên nguồn vui của ông Tư rất đơn sơ, bình dị: “Tình ông đối với vườn chim này là một, và tình ông đối với bộ đội giải phóng là hai”. Trái tim ông Tư đã khắc sâu một lời nguyền cao cả thiêng liêng: “Cái chi tao vứt bỏ được chớ cái vườn chim nầy với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu !”. Với ông Tư thì vườn chim là nguồn sinh sống, tiếng chim hót sớm chiều là nguồn vui của ông ; bộ đội Giải phóng là con cháu ông, đang đêm ngày đánh giặc để bảo vệ quê hương, bảo vệ rừng tràm, dòng kinh, vườn chim,... thế thì ông dứt bỏ sao được?

Trên cái nền bức tranh rửng tràm vừa bị bom Mỹ tàn phá đốt cháy, đầy khói lửa, ông Tư xuất hiện với chiếc cuốc trong tay, với cái nhìn không chắp mắt, với lời nói đanh sắc như một nhát chém, Anh Đức đã gợi cho ta thấy một lão nông Nam Bộ mạnh mẽ, ngang tàng, mang nỗi đau của “cơn đau rừng” dám gan góc thách thức mọi âm mưu dã man, tàn bạo của lũ giặc !

Ông Tư đau đớn nhớ lại những tang tóc trong đời mình. Đứng trong đêm tối mịt mùng, nhìn trân trân lên bầu trời, ông coi việc lũ giặc đốt rừng là một đêm tối “tai biến nhất” - đã xảy ra trong đời ! Trong khói lửa, vườn chim xao xác ; cò, diệc bay loạn xạ. Đàn chim “nửa muốn đậu xuống, nửa muốn bay lìa khỏi cụm rừng”. Ông lão đứng trong bóng đêm nhập nhoạng “đưa hai bàn tay nứt nẻ, dính đầy tro bụi, sờ sờ bấu bấu lên ngực”. Nỗi đau như nén xuống bỗng trào lên. Ông Tư buột miệng kêu rên rỉ: “Trời ơi !”. Sao không đau đớn được? Trong ngót 40 năm trời, bên mái chòi ông ngủ không có lúc nào ngừng nghỉ tiếng chim kêu, tiếng chim vỗ cánh đi về... Tiếng chim “như tiếng khánh, làm rộn rịp cả cụm rừng và vui vẻ bầu trời”.

Nhà văn Anh Đức đã miêu tả tâm lý ông Tư về nỗi đau đớn quặn thắt ruột gan “cơn đau rừng”, chỉ ra nguyên nhân sâu xa về tình yêu rừng tràm, yêu vườn chim, yêu các chú giải phóng, lòng căm thù ngùn ngụt đối với giặc Mỹ xâm lược đang đốt rừng, đang bắn giết và tàn phá quê hương. Cảnh rừng tràm và vườn chim bị giặc Mỹ đốt phá đã “cày vào lòng ông nỗi đau xót và phẫn nộ lặng thầm, mỗi lúc một nghiến ngấu, mỗi lúc một sục sôi...”.

Thương xót rừng cháy, đàn chim tan tác vỡ tổ, ông Tư vừa căm thù giặc vừa lo. Ông lo đường tiến quân của bộ đội qua sông Trẹm “bấy lâu kín đáo thế, nay đột nhiên bị chúng thả bom dầu đốt”. Không chịu bó tay trước hành động tàn ác của giặc, ông Tư đã chỉ huy đội cứu rừng lăn xả vào dập tắt lửa khói, ông “đá hất cán cuốc, vung cao lưỡi cuốc lên” và hô lớn “Thôi đi về ! đi về !”. Ông dặn đội cứu rừng đến hừng đông đem dao phảng để chặt rễ cây, để cứu rừng !

Nhiệm vụ cứu rừng đối với ông Tư là “vấn đề sống chết”, là sự “trông cậy”, là niềm “tin tưởng” của bộ đội và bà con làng xã đối với ông. Như một người lính trước giờ xuất kích, ông Tư nắm chặt hai bàn tay lại, như hạ quyết tâm gầm gừ muốn thét thật to: “... Tao sẽ cho tụi bay biết tay. Rừng nầy là của tao, dòng kinh này là của tao, cả vườn chim này, tất cả đều là của tụi tao hết !”.

Đó là sự thách thức đối với kẻ thì ! Đó là lời thề quyết chiến ! Và đó cũng là khát vọng về độc lập, tự do và thống nhất đất nước của người nông dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ.

Tình yêu rừng tràm, yêu vườn chim của ông Tư cũng là tình yêu làng xóm quê hương. Vì thế ông đã đem xương máu và cả cuộc đời của mình, của gia đình mình gắn bó với cách mạng. Ông Tư vườn chim tượng trưng cho bao phẩm chất cao đẹp của người nông dân Nam Bộ: giàu lòng yêu nước, chất phác, bộc trực, dũng mãnh và hiên ngang trong chiến đấu. Qua “Ông lão vườn chim”, nhà văn Anh Đức đã dựng nên một tượng đài hùng vĩ về người nông dân Nam Bộ thời đánh Mỹ, đem đến cho chúng ta nhiều ngưỡng mộ về một “dáng đứng “ anh hùng ! 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo