Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích nguyên nhân thất bại của quân Nguyên Mông đối với vua tôi nhà Trần

Phân tích nguyên nhân thất bại của quân nguyên mông đối với vua tôi nhà trần
2 trả lời
Hỏi chi tiết
71
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Nguyên Mông, một trong những đế chế lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong lịch sử, đã nhiều lần xâm lược Đại Việt (triều đình nhà Trần) nhưng đều thất bại. Dưới đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của quân Nguyên Mông trong cuộc chiến chống lại vua tôi nhà Trần:

### 1. Chiến lược và chiến thuật chiến tranh của nhà Trần
- **Chiến lược phòng thủ chủ động:** Nhà Trần đã có những chiến lược phòng thủ tốt, chủ động kháng chiến, thay vì chỉ đứng im chờ đợi. Họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng và tổ chức lực lượng quân đội để có thể phản công khi có cơ hội.
- **Chiến thuật du kích:** Lực lượng quân đội nhà Trần đã sử dụng chiến tranh du kích rất hiệu quả, phối hợp với các yếu tố địa hình để chiến đấu. Họ tận dụng rừng núi, giao thông khó khăn để gây khó khăn cho quân địch.

### 2. Tinh thần yêu nước và đoàn kết của quân dân
- **Tinh thần yêu nước:** Nhân dân Việt Nam, cùng với các triều đình nhà Trần, đã thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt. Họ coi việc bảo vệ đất nước là nghĩa vụ cao cả, từ đó tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn trong cuộc kháng chiến.
- **Đoàn kết dân tộc:** Các giai tầng xã hội, từ quan lại đến nông dân, đều đồng lòng chống giặc ngoại xâm, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc kháng chiến.

### 3. Lợi thế địa lý và thời tiết
- **Địa hình gây bất lợi cho quân Nguyên Mông:** Địa hình Việt Nam với nhiều đồi núi, sông ngòi đã làm cho quân Nguyên Mông không thể áp dụng các chiến thuật kỵ binh hiệu quả như ở các vùng đồng bằng rộng lớn.
- **Thời tiết:** Thời tiết khí hậu Việt Nam, đặc biệt là mùa mưa, đã làm giảm khả năng di chuyển và chiến đấu của quân Nguyên Mông, trong khi quân Trần đã quen với thời tiết khắc nghiệt này.

### 4. Đánh giá sai về đối phương
- **Sự tự mãn và ảo tưởng sức mạnh của quân Nguyên Mông:** Quân Nguyên Mông đã đánh giá thấp sức kháng cự của quân và dân Đại Việt. Họ nghĩ rằng với lực lượng đông đảo và trang bị hiện đại, họ dễ dàng có thể chinh phục Đại Việt.
- **Chiến thuật không linh hoạt:** Quân Nguyên Mông đã không linh hoạt trong chiến thuật, nếu so với khả năng phản ứng nhanh và sáng tạo của quân Trần.

### 5. Lãnh đạo quân đội nhà Trần
- **Vai trò lãnh đạo của các vị vua Trần:** Các vị vua Trần, đặc biệt là Trần Hưng Đạo, đã có những quyết định chiến lược đúng đắn và khéo léo trong tổ chức quân đội, kêu gọi nhân dân tham gia kháng chiến.
- **Khả năng chỉ huy và tổ chức:** Lãnh đạo quân đội nhà Trần đã thể hiện tài năng quân sự, sự khôn khéo trong việc xây dựng lực lượng và đưa ra các kế hoạch tác chiến hiệu quả.

Những yếu tố trên đã đóng góp không nhỏ vào việc giúp nhà Trần không chỉ bảo vệ được đất nước mà còn ghi dấu ấn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thành công của nhà Trần trước quân Nguyên Mông cũng là minh chứng cho sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của dân tộc.
1
0
Quỳnh Annh
18/08 09:13:32
+5đ tặng

Dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288) của quân và dân nhà Trần giành thắng lợi vang dội, đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của giặc. Chiến thắng là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế “dĩ dật đãi lao”- lấy gần chờ xa, lấy khỏe chờ mệt, lấy no chờ đói.

Khi quân Nguyên - Mông xâm phạm ải Phú Lương (Lạng Sơn), mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn về thế giặc năm nay ra sao? Trần Quốc Tuấn điềm tĩnh trả lời: “Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc đánh dẹp, mà quân họ lại ngại về đi xa; vả lại họ đã cạch sự thất bại của Hằng và Quán, không có lòng chiến đấu nữa. Cứ ý thần xem thì tất đánh tan được”1; đồng thời khẳng định: “Năm nay thế giặc dễ đánh”2. Đây không chỉ là câu trả lời nhằm làm an lòng Vua của một vị đại thần, mà còn là sự hiến kế, nhận định, đánh giá có cơ sở về tương quan lực lượng giữa ta và địch của một nhà chính trị - quân sự kiệt xuất.

Luận về đánh quân giặc đi xa, trong Thiên Quân tranh - Binh pháp Tôn Tử viết: người giỏi dùng binh phải lấy sự mạnh khỏe để đối phó với cái mệt mỏi của đối phương; chuẩn bị đầy đủ binh lực, làm cho đối phương khó khăn, nhuệ khí chiến đấu giảm sút lúc đó mới ra tay, một đòn là hạ được giặc - đó chính là kế “dĩ dật đãi lao”. Là người “am hiểu binh pháp”, kết hợp nghiên cứu thấu đáo hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông trước đó, Trần Quốc Tuấn đã cùng với Bộ Thống soái nhà Trần vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế “dĩ dật đãi lao”, chỉ huy quân và dân đập tan cuộc tiến công xâm lược Đại Việt lần thứ 3 của quân xâm lược Nguyên - Mông.

Trước hết, tích cực chuẩn bị kháng chiến, bố trí thế trận chống giặc hiểm, chắc. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục cùng kinh nghiệm phong phú có được từ hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi trước đó, quân và dân Đại Việt bước vào cuộc kháng chiến lần thứ 3 với thế chủ động và lòng tự tin cao độ. Khi được tin quân Nguyên - Mông lăm le xâm lược Đại Việt, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt kháng chiến. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin cậy cử làm Quốc công tiết chế, đốc thúc, kiểm tra việc chuẩn bị kháng chiến của triều đình, chỉ đạo, chỉ huy vương hầu, chư tướng, cùng quân và dân cả nước đánh giặc. Tháng 7/1286 vua Trần lệnh cho các vương hầu, tôn thất tuyển chọn thêm binh lính, chấn chỉnh lực lượng, luyện tập quân sĩ; gấp rút chế tạo, tu sửa khí giới, chiến thuyền; giao cho các tướng trấn giữ, tiêu hao, tiêu diệt quân giặc ở một số hướng, khu vực hiểm yếu: Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái vùng Lạng Sơn, Trần Khánh Dư vùng biển Vân Đồn, Trần Nhật Duật vùng Bạch Hạc, v.v. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng Mười âm lịch năm đó (19/10 - 16/11/1286) một cuộc luyện tập lớn đã được tiến hành, nhằm đánh giá khả năng chuẩn bị, sẵn sàng đánh giặc của quân và dân ta.

Cùng với việc chuẩn bị đầy đủ binh lực, lương thảo, việc bố trí thế trận chống giặc cũng được Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái chú trọng. Do nắm chắc kế hoạch xâm lược của quân Nguyên - Mông cũng như thế và lực của quân ta, Trần Quốc Tuấn đã không bố trí đại bản doanh và quân chủ lực triều đình ở các khu vực gần biên giới hay trên đường đại quân của giặc có thể tiến về Thăng Long. Để tiện việc cơ động đánh giặc trên cả đường bộ và đường biển, Ông đã bố trí một lực lượng thủy binh quan trọng của quân chủ lực triều đình trong khu vực từ thiên Trường đến Tháp Sơn cùng quân bộ ở giữa Thăng Long và Vạn Kiếp. Để làm chậm bước tiến, sát thương, tiêu hao, tiêu diệt giặc, Ông còn bố trí quân triều đình phối hợp với quân các lộ, phủ và hương binh, dân binh tại các khu vực rừng núi, sông ngòi hiểm trở. Với việc chuẩn bị kháng chiến khẩn trương, nghiêm túc, bố trí thế trận hiểm, chắc, có thế công, thế thủ, thế lui, quân và dân nhà Trần đã có mặt tại các nơi hiểm yếu và dự kiến đón đánh giặc ở một số khu vực cả đường bộ và đường thủy.

Thứ hai, “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái khí tàn lụi lúc chiều tà của giặc. Tiến công xâm lược Đại Việt lần thứ 3, ngoài âm mưu biến nước ta thành quận, huyện, quân Nguyên - Mông còn muốn rửa nỗi nhục hai lần thất bại trước đó. Để chắc thắng, trước khi xâm lược, vua Nguyên - Mông là Hốt Tất Liệt đã căn dặn tướng, sĩ: không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà coi thường; không nôn nóng, cay cú, v.v. Nhưng ỷ có quân đông, “tướng hùng” và muốn lập công, Thái tử Thoát Hoan lại “tốc chiến, tốc quyết” hòng bắt sống toàn bộ vua tôi nhà Trần. Hiểu giặc sâu sắc, đồng thời có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về lực lượng, thế trận, phương tiện, lương thảo, đặc biệt là niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh tinh thần của dân tộc, Trần Quốc Tuấn đã cùng Bộ Thống soái thực hiện lấy khỏe chờ mệt đối phó với quân Nguyên - Mông. Để tránh cái thế hăng hái lúc ban mai của giặc, Ông chỉ huy các đội quân chủ lực rút lui an toàn, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ngăn chặn, vừa làm giảm tốc độ tiến công, vừa làm cho chúng chủ quan, coi thường. Khi giặc tiến công Kinh thành Thăng Long, quân triều đình và nhân dân lại tạm thời lui xuống hạ lưu sông Hồng, thực hiện kế “thanh dã” - vườn không, nhà trống. Không bắt được Vua và Bộ Thống soái, cũng không giao chiến được với quân chủ lực nhà Trần, trong khi đó lực lượng lại bị tổn thất đáng kể trên đường tiến công, đã khiến quân giặc mệt mỏi, buộc phải dừng lại củng cố các vùng đã chiếm được. Quân và dân ta tại các nơi giặc chiếm đóng liên tục thực hiện các đợt tiến công nhỏ lẻ, bao vây, chặn giặc để Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái có thời gian bố trí thế trận phản công tại các khu vực dự kiến lừa, dụ địch vào để đánh trận quyết định. “Điều cốt yếu để đánh được giặc không phải chỉ dùng sức mạnh để chống còn phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó, hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó, lừa bằng tình, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn, hư thực, lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa thì ta biết”3 để tạo ra bước ngoặt giành thắng lợi trong chiến tranh.

Không thực hiện được mục đích xâm lược, lại bị cô lập, rơi vào tình thế tuyệt vọng vì sợ “lương hết, quân mệt, không biết lấy gì chống đỡ lâu dài”, nên Thoát Hoan vội vàng quyết định rút quân về nước theo hai đường: thủy và bộ hòng phân tán đối phương, hy vọng bảo toàn lực lượng. Nắm bắt chính xác hướng rút quân của địch, Trần Quốc Tuấn đã bố trí đại quân chủ lực tại sông Bạch Đằng để tiêu diệt thủy binh của giặc, đồng thời sử dụng lực lượng khá mạnh cùng với dân binh mai phục trên các ngả đường lên biên giới. Với thế trận hiểm, chắc, khí thế chiến đấu mãnh liệt, chúng ta đã tiến công tiêu diệt toàn bộ đạo thủy quân rút lui trên sông Bạch Đằng và đạo quân rút lui theo đường bộ qua ải Nội Bàng. Việc cùng lúc đánh tan hai đạo quân của giặc trên đường rút chạy là đánh vào cái khí tàn lụi lúc chiều tà, sức chỉ dùng một nửa mà công được gấp đôi. Theo binh pháp Tôn Tử, khi “Quân giặc rút về nước thì không nên đánh chặn, bao vây quân giặc, nên chừa một chỗ hở. Quân giặc đến bước đường cùng thì không nên truy bức”4, song để loại bỏ hoàn toàn ý đồ xâm lược Đại Việt của quân Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn đã vận dụng linh hoạt binh pháp Tôn Tử, đánh trận quyết định trên sông Bạch Đằng.

Thứ ba, triệt phá, chặn, cắt các đoàn vận tải, tiếp tế lương thảo của giặc. Lương thảo là yếu tố quan trọng bậc nhất bảo đảm sống còn cho đạo quân viễn chinh. Rút kinh nghiệm từ hai lần xâm lược Đại Việt trước, một trong những nguyên nhân thất bại chủ yếu là thiếu lương, lần này, để bảo đảm lương thảo cho khoảng 30 vạn quân, ngoài việc vận chuyển bằng đường bộ, Hốt Tất Liệt còn giao cho Trương Văn Hổ chỉ huy vận chuyển 17 vạn thạch lương bằng đường biển. Để hộ tống cho đoàn thuyền lương này, đồng thời mở một mũi tiến công bằng đường thủy, Hốt Tất Liệt lệnh cho Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đem 500 thuyền chiến từ Khâm Châu tiến vào Đại Việt. Việc cắt đứt mọi nguồn cung cấp, tiếp tế lương thảo của giặc là điều cực kỳ quan trọng, nên quân, dân nhà Trần đã thực hiện kế “thanh dã” và triệt phá các đoàn lương thảo của chúng.

Cuối tháng 11/1287, quân Nguyên - Mông bắt đầu xâm lược Đại Việt, đội quân do Thoát Hoan chỉ huy sau khi đánh chiếm được Vạn Kiếp ra sức củng cố mọi mặt để tiếp tục đánh chiếm Kinh thành, song nạn thiếu lương thảo lại trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với chúng. Để bảo đảm sức chiến đấu, giặc đã phải cho quân đi cướp lương thảo trong dân, tuy nhiên chúng đã gặp cảnh vườn không, nhà trống và bị phục kích. Tháng 12/1287, đạo thủy binh do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, xuất phát từ Khâm Châu tiến vào vùng biển Đông Bắc nước ta. Trần Khánh Dư chỉ huy một lực lượng thủy binh chặn đánh, nhưng không thành, nên phải lui quân bảo toàn lực lượng và chuẩn bị mưu, kế đánh trận tiếp theo. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình và nhận định: Ô Mã Nhi sẽ chủ quan, khinh địch, cơ động nhanh về hội quân cùng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp bỏ lại đoàn thuyền lương phía sau - đây là điểm yếu chí tử của chúng. Trước tình thế đó, Trần Khánh Dư thiết lập thế trận mai phục và chỉ huy đội thủy quân tiến công tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương của giặc. Quân ta “bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng nhiều”5. Quân giặc vừa thiếu lương ăn, vừa bị đau ốm, lại bị quân và dân nhà Trần tiến công khắp nơi, nên khi hay tin đoàn thuyền lương bị tiêu diệt thì toàn bộ tướng, sĩ tinh thần suy sụp, nhuệ khí chiến đấu giảm sút; trong khi đó, đại quân nhà Trần lực lượng vẫn bảo toàn, nung nấu ý chí, sẵn sàng phản công diệt giặc ngoại xâm. Như vậy, với chiến thắng trên vùng biển Vân Đồn - triệt phá đoàn thuyền lương của giặc, quân và dân nhà Trần đã khiến quân giặc vô cùng tuyệt vọng, hoang mang, lo sợ, đúng như vua Trần Nhân Tông nhận định: “Quân Nguyên cốt trông cậy vào lương thực và vũ khí, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thế của nó không tràn ra được nữa… Vậy nên ta thả những tên bị bắt về báo tin với Thoát Hoan, ắt quân của nó tất ngả lòng, bấy giờ phá mới dễ”6.

Nghệ thuật quân sự “lấy gần chờ xa, lấy khỏe chờ mệt, lấy no chờ đói” trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 của quân và dân nhà Trần là bài học vô cùng quý giá, cần được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Tuyết Nhi
18/08 09:35:16
+4đ tặng
Việc di tản khỏi kinh đô của Đại Việt hẳn không phải là một cuộc rút chạy đơn thuần, mà là một phần quan trọng của kế sách “Vườn không nhà trống".

Trong  hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất và thứ hai, triều đình nhà Trần cùng quân dân đều phải rút khỏi kinh thành Thăng Long nhưng cuối cùng đều giành được chiến thắng. Đó là điều tương đối bất thường trong bối cảnh lịch sử thời trung đại. Hầu hết những quốc gia để mất kinh đô trong chiến tranh khó mà đảo ngược tình thế. Tuy nhiên đối với Đại Việt lại là ngoại lệ vì chúng ta có những hoàn cảnh đặc trưng và có phương thức tiến hành chiến tranh đặc trưng.

Việc di tản khỏi kinh đô của Đại Việt hẳn không phải là một cuộc rút chạy đơn thuần, mà là một phần quan trọng của kế sách “Vườn không nhà trống”. Thăng Long đúng nghĩa một tòa thành trống rỗng sau khi quân ta rút đi. Lương thực không có, nhân dân cũng di tản. Điều này khiến cho việc chiếm được kinh đô của Đại Việt không mang nhiều ý nghĩa chiến lược đối với quân Nguyên nữa. Người Việt bấy giờ đã quen với việc chiến đấu mà không có kinh đô. Đầu não của quân Đại Việt có thể di chuyển khắp nơi trong nước nhờ vào sự chuẩn bị tốt, thuyền bè cơ động nhanh.

Vua Trần sau khi rút khỏi Thăng Long thì cho phần lớn quan quân và triều đình dong thuyền rút thẳng về Thiên Trường. Dọc sông Hồng, quân Đại Việt bố trí hàng loạt cứ điểm phòng ngự để cắt đuôi quân Nguyên. Thoát Hoan hạ được thành Thăng Long rồi, cùng Ô Mã Nhi thống lĩnh thủy quân ráo riết đuổi theo vua Trần. A Bát Xích tiến sau, chưa kịp vào thành Thăng Long đã nhận lệnh cho bộ quân tiến theo dọc sông Hồng về nam để phối hợp. Truy binh quân Nguyên hai đạo thủy bộ hùng hổ đuổi theo vua Trần.

Ô Mã Nhi cho quân bắn thư sang quân ta đe dọa vua Trần: “Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước” (theo Thiên Nam hành ký – Từ Minh Thiên). Ấy là do Ô Mã Nhi cho rằng lần này hắn đã có thủy quân mạnh, thuyền bè nhiều nên có thể dễ dàng tung hoành trên khắp lãnh thổ Đại Việt chứ không giống như lần xâm lược trước. Tuy nhiên, viên tướng thủy quân Nguyên Mông không thể đắc chí được lâu.

Tại các căn cứ Cảm Nam (phía nam Thăng Long, chưa rõ vị trí), Hàm Tử (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay) quân ta đã bố trí hai chốt chặn hậu, tạo điều kiện cho vua Trần và đầu não triều đình rút lui. Thoát Hoan cho rằng vua Trần ở Cảm Nam, đích thân đem quân đánh vào đấy, lại lệnh cho A Bát Xích dẫn bộ binh đánh vào Hàm Tử. Vượt qua được Cảm Nam và Hàm Tử, quân Nguyên tiếp tục đuổi xuống phía nam thì gặp phải chốt chặn ở Hải Thị (ngã ba sông Luộc, ranh giới tỉnh Hưng Yên và Thái Bình ngày nay). Khi quân Nguyên vượt qua được Hải Thị thì đại quân và triều đình Đại Việt đã đi xa. Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, A Bát Xích chia quân lùng sục khắp vùng Thiên Trường (thuộc Nam Định ngày nay), Long Hưng (Thái Bình ngày nay) để tìm kiếm tung tích vua Trần.

Không tìm thấy đầu não quân ta, Ô Mã Nhi tức tối sai quân tàn phá Chiêu lăng, là lăng mộ vua Trần Thái Tông ở phủ Long Hưng. Quân Nguyên đào bới, tìm mãi chẳng thấy quách của vua Trần Thái Tông, chỉ đập phá công trình rồi rút đi. Giặc vừa truy lùng vua Trần vừa cướp bóc, giết chóc khắp nơi. Chúng đốt phá các điền trang, thái ấp, làng mạc dọc đường tiến quân, một dãi giang sơn xơ xác tiêu điều. Các tướng lĩnh Nguyên Mông rất căm tức quân dân ta đã đánh bại chúng lần trước nên không bỏ qua cơ hội nào để trút hận thù lên muôn dân. Cuộc chiến do đó mang nặng màu sắc diệt chủng.

 Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Chính trong sử sách nước Nguyên cũng phải ghi nhận việc làm của quân giặc “đốt phá chùa chiền, đào bới lăng mộ, cướp giết người già trẻ con, tàn phá sản nghiệp trăm họ, không điều gì là không làm” (Thiên Nam Hành Ký – Từ Minh Thiên). Về phía nhân dân Đại Việt, chúng ta đã giảm thiểu được những thiệt hại nhân mạng nhờ vào việc đã có chuẩn bị từ trước, cố gắng di tản khỏi những điểm nóng của cuộc chiến tranh, thực hiện “vườn không nhà trống”. Tuy nhiên, vẫn không thể tránh khỏi những tang thương, mất mát nhất định. Quân Nguyên càng giết chóc, tàn phá nhiều càng hun đúc chí căm thù cho quân dân ta. Từ triều đình, quan quân đến dân chúng ai nấy đều căm phẫn khi hay tin Ô Mã Nhi phá hoại lăng tẩm hoàng gia và tàn hại trăm họ, chỉ chực chờ cơ hội xả thân báo thù.

Thoát Hoan được tin vua Trần đóng ở cửa biển Giao Thủy ở Thiên Trường, bèn đem binh thuyền đuổi tới. Quân Nguyên đến đó thì hoàn toàn mất dấu vua Trần. Thoát Hoan chẳng biết vua Trần đã đi đâu mấtđành phải rút quân về Thăng Long củng cố vùng chiếm đóng, sai A Bát Xích cùng Áo Lỗ Xích phụ trách chia quân đi tìm cướp lương thực nuôi quân. Ô Mã Nhi đem thuyền ra cửa An Bang đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Thoát Hoan đến giờ vẫn chưa hay biết là thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị tiêu diệt bởi Trần Khánh Dư từ tháng trước rồi. Như vậy là sau những hoạt động rầm rộ buổi đầu, quân Nguyên đã bắt đầu bước vào giai đoạn cạn kiệt dần lương thực.

Cuộc truy đuổi của quân Nguyên diễn ra từ ngày 2.2 đến ngày 6.2.1288. Tức là chỉ trong 4 ngày giặc vừa đánh hạ các cứ điểm chặn hậu vừa hành quân đuổi theo quân ta một đoạn đường dài từ Thăng Long đến cửa biển Giao Thủy. Điều đó chứng tỏ quân Nguyên lần này với lực lượng thủy quân hùng hậu đã có sức cơ động nhanh, sức chiến đấu trên chiến trường sông nước mạnh mẽ vượt bậc so với lần xâm lược trước. Nhưng điều đó là chưa đủ để cho quân xâm lược có thể thủ thắng. Đơn giản là hạm đội của Đại Việt còn có tốc độ hành quân nhanh hơn quân Nguyên. Khi Thoát Hoan đến cửa Giao Thủy, quân ta đã ra biển lớn và chia làm nhiều nhánh quân. Hưng Đạo vương đem một hạm đội ngược về hướng bắc, tản ra hoạt động khắp các lộ ven biển là Hồng, Khoái, Kiến Xương, Hải Đông…

Vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng Trần Thánh Tông đem một hạm đội vào Thanh Hóa. Nhờ có thuyền bè nhiều và nhanh nhẹn, quân Đại Việt có thể dễ dàng chia quân tùy thích để chốt giữ các đồn trại, một phần trong số đó là để đánh lạc hướng, làm nhiễu thông tin trinh sát của địch. Quân Nguyên do đó không biết chỗ nào là hư, chỗ nào là thực. Bấy giờ vua và Thượng hoàng ở Thanh Hóa ẩn giấu hình tích. Còn thủy quân ta dưới trướng Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn thì tích cực hoạt động ở ven biển đông bắc để quấy rối, thu hút sự chú ý của giặc, cố gắng kiểm soát lại những vùng giặc đã chiếm đóng nhưng không đủ binh lực để giữ. Thoát Hoan phát hiện quân ta hoạt động ở vùng Hải Đông, quả nhiên tập trung sự chú ý vào đấy đúng như kế hoạch của Hưng Đạo vương. Quân Nguyên đem quân đánh vào nhiều nơi.

Theo Nguyên sử ghi chép thì quân Nguyên thắng trận liên tục ở Cá Trầm, Cá Lê, Man San, Ngụy Trại (những địa danh chép theo Nguyên sử, không rõ vị trí cụ thể), nhưng thực chất những trận này toàn là đụng phải những lực lượng nghi binh của Hưng Đạo vương. Một nhánh quân Nguyên dưới trướng Tích Đô Nhi thực sự gặp phải quân chủ lực của Hưng Đạo vương ở gần Tháp Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), lập tức bị quân ta đánh lui. Từ đây, bộ binh quân Nguyên co cụm dần về Thăng Long, Vạn Kiếp và tăng cường cướp bóc khắp nơi, đồng thời chờ đợi đoàn thủy quân của Ô Mã Nhi sẽ đón được thuyền lương mang về doanh trại.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Lịch sử Đại học mới nhất
Trắc nghiệm Lịch sử Đại học mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư