Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Văn bản trên thuộc thể loại nào? Cho biết phương thức biểu đạt chính của văn bản? Nêu đề tài của văn bản trên? Vấn đề được tác giả đặt ra trong bài viết là gì?

TẠI SAO CHÚNG TA NÊN ĐỌC VĂN CHƯƠNG?
Gregory Currie, giáo sư triết học ở trường Đại học Nottingham, gần đây biện luận trên tờ New York Times rằng ta không thể khẳng định chuyện văn chương sẽ cải thiện con người mình, bởi vì không có “bằng chứng thuyết phục nào cho thấy con người ta sẽ tốt hơn về mặt luân lí và xã hội nhờ đọc Tolstoy” hay bất kì cuốn sách vĩ đại nào khác.
Thực sự thì có bằng chứng hẳn hoi. Raymond Mar, nhà tâm lí học tại trường Đại học York ở Canada, và Keith Oatley, giáo sư danh dự ngành tâm lí học tri nhận ở trường Đại học Toronto, đã báo cáo một nghiên cứu được công bố hồi năm 2006 và năm 2009 [1] rằng những người nào thường đọc văn học dường như có khả năng thông hiểu, đồng cảm với người khác tốt hơn và có thể nhìn thế giới từ quan điểm người khác. Mối liên kết này vẫn tồn tại thậm chí sau khi các nhà nghiên cứu tính đến khả năng rằng những người có sự đồng cảm nhiều hơn có thể chọn đọc nhiều tiểu thuyết hơn. Nghiên cứu năm 2010 [2] của Mar phát hiện kết quả tương tự ở trẻ nhỏ: người ta đọc truyện cho trẻ con càng nhiều, thì càng phát triển mạnh mẽ “thuyết tâm ý” (theory of mind) của bọn trẻ, hay còn gọi là mô hình tinh thần cho biết mỗi người đều có ý định của riêng mình.
“Việc đọc sâu” – đối nghịch lại với chuyện đọc trên bề mặt mà ta thường làm trên Web – là lối thực hành có nguy cơ tuyệt chủng, một dạng thực hành mà ta phải có biện pháp gìn giữ như ta gìn giữ một toà nhà quan trọng trong lịch sử hay một tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa. Kĩ năng đọc như thế nếu biến mất sẽ làm nguy hại đến sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của hàng bao nhiêu thế hệ trưởng thành cũng mạng Internet, cũng như nguy hại đến việc duy trì nhiệm vụ phê phán trong nền văn hoá chúng ta: các tiểu thuyết, bài thơ và những thể loại văn chương khác chỉ có thể được trân trọng bởi những độc giả có trí não được đào tạo để lĩnh hội chúng, theo đúng nghĩa đen.
Nghiên cứu gần đây ở lĩnh vực khoa học tri nhận (cognitive science), tâm lí học và khoa học thần kinh đã chứng tỏ rằng việc đọc sâu – chậm rãi, đắm chìm vào, phong phú về mặt chi tiết thuộc cảm giác, sự phức tạp về mặt cảm xúc và luân lí – chính là trải nghiệm đặc sắc, khác với cách đọc giải nghĩa từ ngữ đơn thuần. Mặc dù đọc sâu, xét cho cùng, không cần đến một cuốn sách theo qui ước truyền thống, nhưng những giới hạn bên trong trang sách là thứ đặc biệt làm cho trải nghiệm đọc sâu được dễ dàng hơn. Một cuốn sách không có những đường siêu liên kết (hyperlink), chẳng hạn thế, sẽ giải thoát người đọc khỏi việc đưa ra quyết định – Liệu tôi có nên nhấp vào đường liên kết này hay không? – và điều đó cho phép họ tiếp tục chìm đắm hoàn toàn vào câu chuyện.
Trạng thái chìm đắm đó nhận được hậu thuẫn từ cách bộ não xử lí ngôn ngữ giàu chi tiết, hàm ý, và ẩn dụ: bằng cách tạo ra một biểu tượng trong tâm trí được thực hiện thông qua một số khu vực trong não bộ, đây là những khu vực vốn sẽ hoạt động nếu khung cảnh được phơi mở ra trong đời thực. Những tình huống cảm xúc và những nan đề luân lí vốn là chất liệu trong văn chương cũng là cách thực hành đầy sinh lực dành cho bộ não, đẩy chúng ta đi vào bên trong đầu óc của những nhân vật hư cấu và thậm chí, theo một số nghiên cứu cho biết, còn làm tăng cường năng lực đồng cảm của chúng ta ở ngoài đời thực.
Không thể có chuyện này xảy ra khi chúng ta lướt trang TMZ. Mặc dù ta gọi hành động đó cùng một cái tên, nhưng việc đọc sâu vào cuốn sách và việc đọc lấy thông tin trên Web là hai chuyện vô cùng khác nhau, cả về trải nghiệm chúng tạo ra và về những năng lực chúng phát triển nên. Ngày càng có nhiều chứng cứ cho biết việc đọc trên mạng có thể kém phần hấp dẫn và ít làm ta thoả mãn hơn, thậm chí đối với những “cư dân thời đại số” vốn rất quen thuộc với chuyện đọc trên mạng như thế. Chẳng hạn như tháng Năm vừa rồi, tổ chức National Literacy Trust của Anh quốc đã công bố kết quả cuộc nghiên cứu trên 34,910 người trẻ độ tuổi từ 8 đến 16. Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng 39% trẻ con và trẻ vị thành niên dùng các thiết bị điện tử để đọc hàng ngày, nhưng chỉ có 28% hàng ngày đọc các ấn phẩm in giấy. Đối với những người chỉ đọc trên màn hình thì chuyện thích đọc nhiều kém hơn ba lần, và số người có được cuốn sách ưa thích ít hơn một phần ba. Nghiên cứu cũng phát hiện rằng đối với những người trẻ đọc hàng ngày trên màn hình thì khả năng trở thành người đọc trên trung bình kém hai lần so với những người đọc hàng ngày trên sách giấy hoặc trên sách giấy lẫn trên màn hình.
Để hiểu được lí do tại sao ta nên lo lắng về cách những người trẻ đọc, và không chỉ chuyện họ có đọc chút nào không, sẽ có ích khi biết được vài điều về cách thức tiến hoá của khả năng đọc. “Con người chưa bao giờ được sinh ra để đọc”, theo lưu ý của Maryanne Wolf, giám đốc của Center for Reading and Language Research tại trường Đại học Tufts và là tác giả của cuốn Proust and the Squid: The Story and Science of the Reading Brain. Không như khả năng hiểu và sản sinh ngôn ngữ nói, mà theo nhiều tình huống bình thường sẽ bộc lộ ra theo chương trình được các gene của ta ra lệnh, thì khả năng đọc phải đạt được nhờ sự chịu khó của mỗi cá nhân. “Mạch thần kinh cho việc đọc” mà ta tạo dưng nên được tuyển dụng từ những cấu trúc trong não bộ vốn tiến hoá theo những mục đích khác – và những mạch thần kinh này có thể yếu ớt hoặc rất mạnh khoẻ, tuỳ thuộc vào việc ta dùng nó thường xuyên và mạnh mẽ ra làm sao.
Người đọc sâu, vốn được bảo vệ khỏi những xao nhãng và quen với những sắc thái tinh tế trong ngôn ngữ, sẽ thâm nhập vào trạng thái mà nhà tâm lí học Victor Nell, trong một nghiên cứu về tâm lí học của việc đọc sách hứng thú, đối chiếu với trạng thái nhập định kiểu thôi miên. Nell phát hiện rằng lúc mà người đọc thích thú trải nghiệm đó nhất, thì nhịp đọc của họ thực sự chậm rãi. Sự kết hợp giữa việc giải nghĩa từ ngữ nhanh chóng, trôi chảy và tiến độ chậm rãi, thong thả trên trang sách sẽ cho người đọc thời gian để làm phong phú việc đọc của mình bằng những chiêm nghiệm, phân tích, và bằng cả kí ức cũng như ý kiến của bản thân. Nó cho họ thời gian thiết lập mối quan hệ thân mật với tác giả, cả hai người họ dấn vào cuộc chuyện trò dài hơi và nồng nhiệt tựa như những người đang yêu.
Đây không phải việc đọc mà nhiều người trẻ nhận biết được. Việc đọc của họ thực dụng và mang tính công cụ: khác biệt giữa cái mà nhà phê bình văn chương Frank Kermode gọi là “cái đọc nhục thể” (carnal reading) và “cái đọc tinh thần” (spiritual reading). Nếu ta cho phép con cái mình tin rằng cái đọc nhục thể là tất cả những gì có được – nếu ta không mở cánh cửa đi vào cái đọc tinh thần, thông qua việc đòi hỏi hình thức kỉ luật và thực hành ngay từ ban đầu – thì đó là việc ta lừa chúng lấy đi những trải nghiệm thích thú, thậm chí ngây ngất, những thứ mà chúng sẽ không tiếp cận được nếu làm khác đi. Và chúng ta tước đi của chúng những trải nghiệm nâng cao và khai mở nhận thức vốn sẽ làm con người chúng mở mang hơn. Quan sát những người trẻ gắn kết với các thiết bị số, một số nhà giáo dục tiến bộ và những bậc cha mẹ dễ dài nói về nhu cầu “gặp gỡ bọn trẻ tại chỗ chúng đang ở”, hình thành cách dạy xung quanh thói quen bám vào màn hình của chúng. Thay vào đó chúng ta cần cho bọn trẻ thấy những nơi chúng chưa từng đến, mà chỉ có việc đọc sâu mới có thể dẫn dắt chúng đến đó được.
(Theo Duy Đoàn, http://tramdoc.vn/tin-tuc/tai-sao-chung-ta-nen-doc- van-chuong-n33rW.html)
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào? Cho biết phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Nêu đề tài của văn bản trên? Vấn đề được tác giả đặt ra trong bài viết là gì?
Câu 3. Tác giả đã đưa ra bằng chứng nào về việc đọc sách văn học giúp con người trở nên tốt đẹp hơn trong cuộc sống?
Câu 4. Tác giả đã phân biệt cách đọc sâu với kiểu đọc nào? Theo tác giả, đọc sâu là trạng thái thế nào?
Câu 5. Câu "Người đọc sâu, vốn được bảo vệ khỏi những xao nhãng" nên được hiểu thế nào?
Câu 6. Theo người viết, điều gì giúp cho người đọc làm phong phú việc đọc của mình?
Câu 7. Quan điểm của tác giả về việc dạy trẻ em cách đọc bám vào thiết bị số là gì?
Câu 8. Để tăng cường tính thuyết phục cho các luận điểm của mình, tác giả chủ yếu sử dụng loại bằng chứng nào? Vì sao?
Câu 9. Theo em, vấn đề mà bài viết đặt ra có đúng với thực tế ở xã hội ta hiện nay không? Vì sao?
Câu 10. Có ý kiến cho rằng: “Là học sinh cần phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Em có đồng ý với ý kiến này không? Hãy viết bài văn thể hiện ý kiến của em.
 
1 trả lời
Hỏi chi tiết
65
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
### Câu 1.
Văn bản trên thuộc thể loại **thảo luận**. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là **biện luận**, nhằm trình bày quan điểm và thuyết phục người đọc về lợi ích của việc đọc văn chương.

### Câu 2.
Đề tài của văn bản trên là **sự cần thiết và lợi ích của việc đọc văn chương trong việc phát triển trí tuệ, cảm xúc và khả năng đồng cảm của con người**. Vấn đề mà tác giả đặt ra trong bài viết là **tại sao chúng ta nên đọc văn chương, đặc biệt trong bối cảnh xã hội hiện đại nơi việc đọc sách truyền thống đang bị lấn át bởi việc đọc trên màn hình**.

### Câu 3.
Tác giả đã đưa ra các **bằng chứng từ nghiên cứu của Raymond Mar và Keith Oatley**, cho thấy rằng những người thường xuyên đọc văn học có khả năng **thông hiểu và đồng cảm với người khác tốt hơn**. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng việc đọc cho trẻ em có thể giúp phát triển khả năng **thuyết tâm ý** (theory of mind) của chúng.

### Câu 4.
Tác giả đã phân biệt cách đọc sâu với **kiểu đọc bề mặt hay đọc lướt**. Theo tác giả, đọc sâu là **trạng thái đắm chìm vào văn bản, giúp người đọc kết nối với cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật, tạo ra trải nghiệm phong phú và chi tiết**.

### Câu 5.
Câu "Người đọc sâu, vốn được bảo vệ khỏi những xao nhãng" nên được hiểu là **những người đọc sâu thường không bị phân tâm bởi các yếu tố bên ngoài (như thông tin trên màn hình hay các liên kết bên lề), từ đó họ có thể tập trung hoàn toàn vào nội dung và trải nghiệm đọc**.

### Câu 6.
Theo người viết, điều giúp cho người đọc làm phong phú việc đọc của mình là **thời gian để suy ngẫm, phân tích và liên hệ nội dung với kinh nghiệm cá nhân**. Sự hòa quyện giữa việc giải nghĩa từ ngữ và tiến độ đọc chậm rãi tạo ra một không gian cho trải nghiệm này.

### Câu 7.
Quan điểm của tác giả về việc dạy trẻ em cách đọc bám vào thiết bị số là **cần phải tạo cơ hội cho trẻ không chỉ dừng lại ở việc đọc trên màn hình, mà cần phải khuyến khích việc đọc sách và trải nghiệm văn học sâu sắc hơn**, để không làm mất đi những trải nghiệm phong phú và nâng cao nhận thức cho trẻ.

### Câu 8.
Để tăng cường tính thuyết phục cho các luận điểm của mình, tác giả chủ yếu sử dụng **bằng chứng từ các nghiên cứu khoa học và tâm lý học**, vì những bằng chứng này dựa trên số liệu thống kê và nghiên cứu thực nghiệm, nên có tính thuyết phục cao hơn so với ý kiến cá nhân.

### Câu 9.
Theo em, vấn đề mà bài viết đặt ra **có đúng với thực tế ở xã hội hiện nay**, bởi vì ngày nay, nhiều người trẻ thường đọc sách trên màn hình mà không có thói quen đọc sâu. Điều này có thể dẫn đến việc giảm khả năng đồng cảm và tư duy sâu. Việc khuyến khích đọc sách văn chương nên được chú trọng hơn để phát triển toàn diện về cảm xúc và trí tuệ.

### Câu 10.
Em hoàn toàn đồng ý với ý kiến “Là học sinh cần phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không chỉ giúp bảo tồn văn hóa dân tộc, mà còn giúp các thế hệ sau hiểu rõ hơn về nguồn gốc và vẻ đẹp của ngôn ngữ.

**Bài viết:**
Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ phát triển mạnh mẽ, tiếng Việt đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ từ việc sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ Internet và các yếu tố xâm nhập từ ngôn ngữ nước ngoài. Là học sinh, chúng ta cần ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Tiếng Việt không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là phần bản sắc văn hóa của dân tộc. Đó là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, mang trong mình nhiều giá trị văn hóa, lịch sử quý báu. Việc sử dụng đúng và chuẩn xác ngôn ngữ sẽ giúp truyền tải thông điệp một cách hiệu quả hơn, đồng thời bảo lưu cái đẹp của chữ nghĩa, ngữ điệu trong văn học và đời sống hàng ngày.

Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta có thể bắt đầu từ những thói quen nhỏ, như sử dụng từ ngữ chính xác trong giao tiếp, tìm hiểu và yêu thích văn học Việt Nam, tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy văn hóa ngôn ngữ. Đồng thời, chúng ta cũng cần phổ biến và tuyên truyền về việc giữ gìn ngôn ngữ qua các phương tiện truyền thông, trong gia đình và trường học.

Hơn nữa, sự trong sáng của một ngôn ngữ cần được duy trì không chỉ bởi cá nhân mà còn cần sự quan tâm của toàn xã hội. Các tổ chức văn hóa, giáo dục cần có những hoạt động cụ thể để nâng cao ý thức về việc sử dụng ngôn ngữ đúng đắn và thẩm mỹ.

Tóm lại, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là trách nhiệm chung của tất cả mọi người. Chúng ta – những học sinh – cần hiểu rõ giá trị của ngôn ngữ, gìn giữ và phát huy sự đẹp đẽ của tiếng Việt không chỉ cho bản thân mà còn cho thế hệ mai sau.
1
0
GuraChan
22/08 20:00:18
+5đ tặng
### Câu 1:
**Văn bản trên thuộc thể loại nào? Cho biết phương thức biểu đạt chính của văn bản?**

**Trả lời:**  
Văn bản trên thuộc thể loại **bài viết phân tích**. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là **miêu tả và thuyết phục**, với việc trình bày thông tin, phân tích, và dẫn chứng để thuyết phục độc giả về giá trị của việc đọc văn chương so với các hình thức đọc khác.

### Câu 2:
**Nêu đề tài của văn bản trên? Vấn đề được tác giả đặt ra trong bài viết là gì?**

**Trả lời:**  
**Đề tài** của văn bản là **tầm quan trọng của việc đọc văn chương đối với sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của con người**. Vấn đề tác giả đặt ra là **việc đọc văn chương có thể giúp con người cải thiện khả năng đồng cảm và hiểu biết về bản thân cũng như người khác, và làm rõ sự khác biệt giữa việc đọc sâu và đọc thông tin trên mạng.**

### Câu 3:
**Tác giả đã đưa ra bằng chứng nào về việc đọc sách văn học giúp con người trở nên tốt đẹp hơn trong cuộc sống?**

**Trả lời:**  
Tác giả đã đưa ra bằng chứng từ **nghiên cứu của Raymond Mar và Keith Oatley** cho thấy những người thường đọc văn học có khả năng thông hiểu và đồng cảm với người khác tốt hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc đọc văn học có thể làm tăng cường khả năng đồng cảm ở trẻ nhỏ và phát triển “thuyết tâm ý”. 

### Câu 4:
**Tác giả đã phân biệt cách đọc sâu với kiểu đọc nào? Theo tác giả, đọc sâu là trạng thái thế nào?**

**Trả lời:**  
Tác giả phân biệt **cách đọc sâu** với **đọc thông tin trên mạng (lướt web)**. Theo tác giả, **đọc sâu** là trạng thái **chậm rãi, đắm chìm, phong phú về mặt chi tiết cảm giác, cảm xúc và luân lý**, cho phép người đọc hoàn toàn tập trung vào nội dung và trải nghiệm cảm xúc sâu sắc từ văn bản.

### Câu 5:
**Câu "Người đọc sâu, vốn được bảo vệ khỏi những xao nhãng" nên được hiểu thế nào?**

**Trả lời:**  
Câu này có nghĩa là người đọc sâu được **bảo vệ khỏi những yếu tố gây phân tâm và xao nhãng** thường gặp khi đọc trên mạng hoặc các phương tiện kỹ thuật số khác. Việc đọc sâu giúp người đọc hoàn toàn tập trung vào nội dung sách mà không bị gián đoạn bởi các liên kết hay thông báo.

### Câu 6:
**Theo người viết, điều gì giúp cho người đọc làm phong phú việc đọc của mình?**

**Trả lời:**  
Theo người viết, **việc đọc chậm rãi và thong thả, cùng với sự kết hợp giữa việc giải nghĩa từ ngữ nhanh chóng và thời gian để chiêm nghiệm, phân tích** giúp người đọc làm phong phú việc đọc của mình. Điều này cho phép họ thiết lập mối quan hệ thân mật với tác giả và làm phong phú thêm trải nghiệm đọc.

### Câu 7:
**Quan điểm của tác giả về việc dạy trẻ em cách đọc bám vào thiết bị số là gì?**

**Trả lời:**  
Tác giả cho rằng **việc dạy trẻ em cách đọc bám vào thiết bị số** có thể dẫn đến việc trẻ chỉ quen với kiểu đọc thực dụng và công cụ, không tiếp cận được những trải nghiệm phong phú và khai mở từ việc đọc sâu. Tác giả khuyến nghị nên cho trẻ em thấy những nơi mới lạ mà chỉ có việc đọc sâu mới có thể dẫn dắt chúng đến, thay vì chỉ làm quen với việc đọc trên màn hình.

### Câu 8:
**Để tăng cường tính thuyết phục cho các luận điểm của mình, tác giả chủ yếu sử dụng loại bằng chứng nào? Vì sao?**

**Trả lời:**  
Tác giả chủ yếu sử dụng **bằng chứng nghiên cứu khoa học** và **dữ liệu thực nghiệm** từ các nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học và khoa học thần kinh. Việc sử dụng các nghiên cứu và số liệu cụ thể giúp tăng cường tính thuyết phục vì chúng cung cấp cơ sở khoa học và thực chứng cho các luận điểm về lợi ích của việc đọc văn chương so với đọc thông tin trên mạng.

### Câu 9:
**Theo em, vấn đề mà bài viết đặt ra có đúng với thực tế ở xã hội ta hiện nay không? Vì sao?**

**Trả lời:**  
Vấn đề mà bài viết đặt ra **có thể đúng với thực tế ở xã hội hiện nay**, đặc biệt khi sự phát triển của công nghệ và thiết bị số đã thay đổi thói quen đọc của nhiều người, nhất là giới trẻ. Việc đọc trên mạng thường có xu hướng ngắn gọn và nhanh chóng, có thể làm giảm khả năng tập trung và sự trải nghiệm sâu sắc như khi đọc sách truyền thống. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải ai cũng phản ứng giống nhau với các hình thức đọc khác nhau, và việc đọc trên mạng cũng có thể có giá trị nếu được kết hợp hợp lý với việc đọc sâu.

### Câu 10:
**Có ý kiến cho rằng: “Là học sinh cần phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Em có đồng ý với ý kiến này không? Hãy viết bài văn thể hiện ý kiến của em.**

**Trả lời:**  
Dưới đây là một bài văn mẫu về ý kiến này:

---

**Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt**

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và phương tiện truyền thông, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trở thành một vấn đề quan trọng và cần thiết. Đối với học sinh, việc này càng trở nên cấp bách hơn, vì sự hình thành và phát triển ngôn ngữ chính là nền tảng cho sự học tập và giao tiếp hiệu quả.

Tiếng Việt, như một phần của di sản văn hóa quốc gia, không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là phương tiện truyền tải các giá trị văn hóa, lịch sử và tư tưởng của dân tộc. Sự trong sáng của tiếng Việt không chỉ là việc bảo tồn ngữ pháp và từ vựng, mà còn là việc duy trì cách sử dụng ngôn ngữ đúng đắn, tránh xa các biểu hiện sai lệch và biến thể không phù hợp.

Học sinh, với vai trò là thế hệ tương lai của đất nước, cần phải ý thức rõ ràng về trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Điều này không chỉ liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp hàng ngày, mà còn bao gồm việc hiểu biết và áp dụng đúng các quy tắc ngữ pháp, từ vựng và văn phong trong các tình huống khác nhau.

Sự ảnh hưởng của công nghệ và mạng xã hội cũng đặt ra thách thức lớn đối với sự trong sáng của tiếng Việt. Ngôn ngữ trên mạng thường bị biến đổi và pha trộn với các yếu tố từ ngôn ngữ khác, dẫn đến sự xuất hiện của các từ ngữ và cách diễn đạt không chuẩn xác. Học sinh cần phải nhận thức được điều này và chủ động bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt bằng cách duy trì thói quen đọc sách, viết văn, và giao tiếp bằng tiếng Việt chuẩn mực.

Để làm được điều này, các trường học và gia đình cũng cần phối hợp trong việc giáo dục và định hướng cho học sinh. Các hoạt động như tổ chức các cuộc thi viết, đọc sách, và các lớp học ngôn ngữ có thể góp phần nâng cao ý thức và kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh.

Trong kết luận, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là trách nhiệm của mọi thế hệ, và học sinh đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Bằng cách duy trì và phát huy giá trị của tiếng Việt, chúng ta không chỉ bảo vệ di sản văn hóa mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của cá nhân và xã hội.

---

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo