Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) bài Lai Tân

vt bài văn phân tích một tác phẩm văn học (Thơ trào phúng) bài lai tân
3 trả lời
Hỏi chi tiết
13
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
**Phân Tích Tác Phẩm Thơ Trào Phúng "Lai Tân"**

"Lai Tân" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tản Đà (1889-1939), nổi bật với thể thơ trào phúng và phong cách nghệ thuật đặc trưng. Bài thơ không chỉ đơn thuần là một tác phẩm giải trí mà còn chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người.

### 1. Vài nét về tác giả

Tản Đà, tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong nền thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ 20. Ông đã có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại, đặc biệt là thể loại thơ trào phúng. Thơ của ông thường thể hiện sự nhạy bén với hiện thực xã hội và tinh thần châm biếm sâu sắc.

### 2. Nội dung và ý nghĩa của bài thơ

Bài thơ "Lai Tân" mượn bối cảnh của một bữa tiệc, nơi có sự tham gia của những nhân vật với nhiều quan điểm, tính cách khác nhau. Tác giả sử dụng các hình ảnh, tình huống hài hước để khẳng định những mâu thuẫn trong tư tưởng và đời sống của con người.

**Chủ đề chính** của bài thơ xoay quanh việc chỉ trích thói phô trương, giả tạo và sự trống rỗng trong cách sống của một bộ phận xã hội. Những nhân vật trong bài thơ được khắc họa với nhiều đặc điểm hài hước, thể hiện sự châm biếm nhưng cũng rất đỗi nhân văn.

### 3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

Tản Đà sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, giàu hình ảnh và âm điệu. Ông kết hợp giữa văn chương bác học và ngôn ngữ dân gian, tạo nên sức cuốn hút trong từng câu chữ. Thể thơ lục bát cũng được phối hợp tinh tế trong việc thể hiện cảm xúc và ý tưởng của tác giả. Nhịp điệu nhẹ nhàng, vui tươi đã làm tăng thêm hiệu quả của các hình ảnh hài hước và châm biếm.

### 4. Ý nghĩa nhân văn

Bên cạnh những nét châm biếm, "Lai Tân" còn mang một thông điệp nhân văn sâu sắc. Tác phẩm không chỉ là một cuộc cạnh tranh giữa những tư tưởng và phương thức sống khác nhau mà còn kêu gọi con người tìm về giá trị đích thực của cuộc sống. Một trong những điều mà Tản Đà muốn truyền tải là: sự giả tạo và phô trương sẽ không bao giờ mang lại hạnh phúc thực sự.

### Kết luận

"Lai Tân" không chỉ là một tác phẩm thơ trào phúng đơn thuần mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với chiều sâu tư tưởng và cảm xúc. Qua đó, Tản Đà đã khéo léo phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời kêu gọi con người trở về với những giá trị giản dị và chân thật. Bài thơ không chỉ làm người đọc cười mà còn khiến mỗi người suy ngẫm về cách sống của chính mình trong xã hội hiện đại.
1
0
Đặng Hải Đăng
2 giờ trước
+5đ tặng

"Bài Lai Tân" là một tác phẩm nổi bật trong phong trào văn học trào phúng của thế kỷ XX, phản ánh một cách sâu sắc tình hình xã hội, chính trị, và đạo đức của xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Vũ Trọng Phụng, với phong cách viết trào phúng đặc sắc, đã vẽ lên bức tranh sống động về bộ mặt của một xã hội đầy mâu thuẫn, xung đột và giả dối. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao mà còn là tiếng nói phê phán mạnh mẽ những thói hư tật xấu, những biến tướng trong cuộc sống và cách sống của con người trong thời kỳ đầu của công cuộc hiện đại hóa.

 

Vũ Trọng Phụng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ để tạo dựng hình tượng. Trong "Bài Lai Tân", ông đã thể hiện sự sắc bén trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật, là những người đại diện cho tầng lớp thượng lưu trong xã hội lúc bấy giờ. Các nhân vật trong bài thơ không phải là những cá nhân cụ thể mà là những "biểu tượng" cho những thói hư tật xấu, những thói quen sống giả tạo trong xã hội phong kiến - thực dân lúc bấy giờ. Chẳng hạn như nhân vật "người thanh niên" với vẻ ngoài tươi tắn, năng động nhưng thực chất lại là sự giả dối, thiếu chân thật. Vũ Trọng Phụng đã thành công trong việc khắc họa một xã hội thượng lưu, nơi cái đẹp, cái thật bị đánh tráo bằng sự giả dối và phù phiếm.

 

Vũ Trọng Phụng không chỉ phê phán xã hội mà còn thể hiện cái nhìn đầy nhân đạo, không chỉ chống lại cái xấu mà còn muốn nâng cao cái đẹp, cái thật trong xã hội. Bài thơ mang một giọng điệu hài hước, châm biếm nhưng cũng đầy nỗi lo âu về tương lai của xã hội. Mặc dù ông có sự chỉ trích mạnh mẽ, nhưng ẩn sau đó là mong muốn những giá trị nhân văn tốt đẹp sẽ được phát triển. Điều này thể hiện ở những câu thơ, những chi tiết vừa mang tính trào phúng vừa mang đậm tính nhân đạo.

 

"Bài Lai Tân" không chỉ đơn thuần là một bài thơ châm biếm, mà còn là một tác phẩm phản ánh sự sâu sắc trong tư tưởng và trí tuệ của Vũ Trọng Phụng. Bằng những câu thơ đầy trí tuệ, tác phẩm đã đưa ra một cái nhìn toàn diện về sự giả dối trong xã hội đương thời. Vũ Trọng Phụng không chỉ phê phán bề ngoài mà còn đi sâu vào bản chất của những hiện tượng xã hội, từ đó phản ánh những suy tư về con người, về xã hội, về những hệ lụy của một xã hội đang trong quá trình giao thoa giữa truyền thống và hiện đại. Thông qua đó, nhà văn gửi gắm thông điệp về sự cần thiết của việc "lột mặt nạ" xã hội, tìm về với sự chân thực và trong sáng.

 

Tư tưởng trong "Bài Lai Tân" có giá trị vượt ra ngoài bối cảnh xã hội của thế kỷ XX mà còn có thể áp dụng vào mọi thời đại. Những vấn đề mà tác phẩm nêu ra, như sự giả dối, phù phiếm trong xã hội, vẫn còn nguyên tính thời sự cho đến ngày nay. Mặc dù tác phẩm ra đời cách đây hàng chục năm, nhưng những thông điệp trong đó vẫn còn vang vọng, nhắc nhở chúng ta về sự quan trọng của sự chân thật và cái đẹp thực sự trong cuộc sống. Chính vì thế, tác phẩm không chỉ là tiếng nói của một thế hệ mà còn là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta về giá trị của nhân cách và lòng tự trọng.

 

Tóm lại, "Bài Lai Tân" của Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm trào phúng sắc sảo, có giá trị nhân văn sâu sắc, phê phán xã hội giả dối, phản ánh sự mâu thuẫn trong cuộc sống, và qua đó gửi gắm những suy tư về con người và xã hội. Tài năng của nhà văn trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, cùng với cái nhìn nhân đạo và trí tuệ sắc bén, đã làm nên một tác phẩm có giá trị trường tồn, vượt lên trên thời gian và không gian.


 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Khánh
2 giờ trước
+4đ tặng

Phân tích bài thơ "Lai Tân" của Hồ Chí Minh

Mở bài

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ lớn, để lại những tác phẩm có giá trị vượt thời gian. Trong tập Nhật ký trong tù, bài thơ "Lai Tân" nổi bật như một bức tranh trào phúng sâu sắc, phản ánh bộ mặt thực tại của xã hội Trung Quốc dưới chế độ Tưởng Giới Thạch. Qua lối viết ngắn gọn, súc tích, bài thơ phơi bày sự tha hóa và bất lực của bộ máy cầm quyền, đồng thời thể hiện cái nhìn hài hước nhưng đầy phê phán của tác giả.

Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác và nội dung bài thơ

Bài thơ được viết trong thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ tại nhà tù Quốc dân đảng ở Trung Quốc. "Lai Tân" là tên một huyện nơi Người từng bị giam. Trong bốn câu thơ ngắn gọn, bài thơ đã khắc họa rõ nét chân dung ba nhân vật đại diện cho bộ máy chính quyền địa phương: huyện trưởng, viên cảnh sát, và người lính canh ngục.

Nguyên văn bài thơ (bản dịch):
Huyện trưởng Lai Tân rất "mẫn cán",
Suốt ngày chỉ tựa cửa hốc hàm;
Cảnh sát Lai Tân "rất oai vệ",
Chuyên nghề cướp giật của dân gian.
Giải thích công lý sao buồn cười,
Ngục tốt đêm nằm ngủ thẳng cẳng.

2. Phân tích

a) Nghệ thuật trào phúng qua bức tranh bộ máy cầm quyền

  • Huyện trưởng: Hình ảnh người đứng đầu huyện "rất mẫn cán" nhưng công việc chính lại là "tựa cửa hốc hàm". Từ ngữ mang tính mỉa mai, phê phán sự lười biếng, bất tài của viên chức cầm quyền.
  • Viên cảnh sát: Thay vì bảo vệ dân, ông ta lại "rất oai vệ", nhưng công việc là "cướp giật của dân gian". Câu thơ tố cáo hành động bất lương, thể hiện sự đảo lộn chức năng của công lý.
  • Người lính canh: Ngục tốt "ngủ thẳng cẳng" gợi hình ảnh biếng nhác, vô trách nhiệm. Điều này không chỉ phản ánh sự buông lỏng kỷ luật mà còn cho thấy sự vô cảm trước tình cảnh của tù nhân.

b) Giọng điệu trào phúng nhẹ nhàng nhưng sâu cay

  • Giọng thơ tưởng chừng hài hước nhưng lại ẩn chứa sự phê phán mạnh mẽ. Hồ Chí Minh không cần dùng ngôn từ gay gắt mà vẫn làm nổi bật sự mục ruỗng, tha hóa của chính quyền Lai Tân.
  • Sự tương phản giữa "mẫn cán" và "hốc hàm", "oai vệ" và "cướp giật" làm tăng tính hài hước, đồng thời nhấn mạnh sự phi lý.

c) Tầm nhìn và triết lý của Hồ Chí Minh

  • Qua bài thơ, Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh một góc nhỏ của chế độ mà còn ngầm lên án cả hệ thống cai trị mục nát của Trung Quốc đương thời.
  • Từ những bất công tại Lai Tân, Người bày tỏ sự đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân lao động và niềm tin vào một xã hội công bằng hơn.
Kết bài

"Lai Tân" là bài thơ ngắn gọn nhưng giàu sức gợi, một áng thơ trào phúng đặc sắc của Hồ Chí Minh. Tác phẩm không chỉ vẽ nên bức tranh hài hước, biếm họa về xã hội đương thời mà còn chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Qua đó, chúng ta càng thêm cảm phục tài năng, trí tuệ và tấm lòng của Người – một nghệ sĩ lớn trong lòng dân tộc và nhân loại.

1
0
Ancolie
2 giờ trước
+3đ tặng

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố ”trữ tình” và “hiện thực”,”Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có “thể thẳng tay đập vào mặt bọn thống trị những cái tát giáng trời:

“Ở phố Hàng Song thật lắm - quan

Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố

Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn”

(Lắm quan)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những hống hách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”,”cảnh trưởng”, “huyện trưởng cái chức “trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, những việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý’ để làm những việc “bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã có, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân mẫu mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc.

Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”.

Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chân dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung). Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả “Lai Tân” đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng nói kéo dài bắc đầu từ chữ “vẫn” ấy.

Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lai Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thống trị chế độ Tưởng Giới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả “Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào.

Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa bỉ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lèn” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở “Lai Tân” mà ở rất nhiều bài thơ khác của “Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như “Trảng binh gia quyến”, “Đổ”, “Đổ phạm’. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đã đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đậm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.

Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ấy cùng bình yên”. (Đưa ông phủ)

Tiếng cười dân tộc đã thấm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thấy nó sâu cay. “Lai Tân” là một bài thơ cũng nằm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc lạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.


Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) - Lai Tân

Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ - thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục cửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn được quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.

Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.

Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quắt chốn này?”

Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!

Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:

“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục cửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:

“Mới đến nhà lao phải nộp tiền

Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên

Nếu anh không có tiền đem nộp

Mỗi bước anh đi một bước phiền”

Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.

“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”

Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn - một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.

Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.

Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k