Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hiện nay học sinh có hiện tượng lạm dụng tiếng lóng và xem đó là biểu hiện của sự sành điệu em có suy nghĩ gì về hiện tượng này?

2 trả lời
Hỏi chi tiết
2.336
1
2
Đỗ Dũng
01/12/2019 21:22:39
Trong sự phát triển của lối sống hiện đại, cùng với sự đa dạng của các phương tiện truyền thông đại chúng... một số cá nhân, một số nhóm trong giới trẻ đã sử dụng tiếng lóng khi giao tiếp với mục đích tạo ra tính độc đáo, cách tân hoặc để làm một ký tín hiệu riêng. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng lóng trong giới trẻ hiện nay đã tạo ra sự sai lệch chuẩn mực xã hội.
1. Sai lệch chuẩn mực xã hội là các quá trình, hiện tượng xã hội và những nhận thức, thái độ hành vi của một cá nhân hoặc nhóm xã hội trái với những quy ước, chuẩn mực xã hội của một nhóm xã hội hoặc của một hệ thống xã hội cụ thể. Và sai lệch chuẩn mực trong sử dụng ngôn ngữ luôn mang tính tương đối về mặt văn hóa, có nghĩa là, việc phân định đâu là hành vi hợp chuẩn và lệch chuẩn luôn phụ thuộc vào sự phán xét, đánh giá của từng loại hình xã hội, từng nền văn hóa khác nhau. Thực tế cho thấy, cùng một hiện tượng xã hội, một ngôn ngữ ở nền văn hóa này, thời điểm này là hợp chuẩn; nhưng đối với nền văn hóa khác, hoặc thời điểm khác, có thể bị coi là lệch chuẩn. Hơn thế nữa, ngôn ngữ có khuynh hướng thay đổi theo thời gian và không gian.
Khi xem xét, đánh giá tiếng lóng trong ngôn ngữ của giới trẻ, theo tôi cần nghiên cứu hai vấn đề có tính phương pháp luận: Một là, không phải tất cả các hiện tượng tiêu cực trái với trạng thái phát triển bình thường của xã hội, đều có thể coi là sai lệch chuẩn mực. Hai là, không phải mọi hoạt động, hành vi của con người đều coi là lệch chuẩn khi nó vi phạm một loại chuẩn mực cụ thể. Và sai lệch trong sử dụng ngôn ngữ tiếng lóng của giới trẻ hiện nay thường biểu hiện hai trạng thái cơ bản: Sai lệch tích cực và sai lệch tiêu cực. Những ngôn ngữ tiếng lóng có sự ảnh hưởng xấu đến sự trong sáng của tiếng Việt và sự phát triển, tiến bộ chung của xã hội thì được xác định hành vi sử dụng ngôn ngữ sai lệch tiêu cực. Những ngôn ngữ, lời nói, những hành động của cá nhân, nhóm xã hội có thể vi phạm hệ thống chuẩn mực đương thời, nhưng xét toàn cục theo chiều hướng đi lên của xã hội thì đó là những hành vi sử dụng ngôn ngữ sai lệch tích cực. Ví như trong ngôn ngữ văn học thế kỉ 19, 20 xuất hiện ngôn ngữ tiếng lóng ít được sử dụng hoặc chỉ sử dụng trong một số tầng lớp nhất định. Và trong số tiếng lóng đã từng sử dụng, giờ đây có nhiều từ ngữ đã trở nên quen thuộc và đi vào ngôn ngữ phổ thông: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có các từ: “Đi dạo”, “rước khách”, “chịu tốt”, “chơi”... hay các từ ngữ trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng: “Giang hồ”, “chạy làng” hoặc một số từ ngữ khác: “Ba hoa”, “xỉn”, “xịn”, “mánh mung”, “quay cóp”…
2. Thực tế hiện nay, giới trẻ đang sống trong một xã hội phát triển, sự thay đổi và xuất hiện của ngôn ngữ tiếng lóng là kết quả tất yếu của sự thay đổi và phát triển không ngừng của xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng lóng của giới trẻ hiện nay đang có sự sai lệch chuẩn mực và phát triển theo chiều hướng tiêu cực. Giới trẻ đang lạm dụng quá mức việc sử dụng tiếng lóng trong ngôn ngữ thường ngày. Trào lưu sử dụng tiếng lóng của các em đang rơi vào tình trạng sử dụng tùy hứng, tự tiện không phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp và tạo ra phản cảm. Phổ biến hiện nay giới trẻ thường sử dụng tiếng lóng lai căng, pha giữa tiếng Anh và tiếng Việt.Các em không những thể hiện khả năng tiếng Anh không đúng lúc mà còn làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt, gây cảm giác khó nghe trong giao tiếp. Các em không ngần ngại nói tiếng lóng với tất cả các đối tượng giao tiếp như: “Ok thầy”, “thank-kiu cô”, “sorry bạn”… hay trong ngôn ngữ giao tiếp qua điện thoại các em ám chỉ bố mẹ bằng các từ ngữ: “Bô lão”, “lão ông”, “lão bà bà”, “ma ma”… hoặc dùng cách viết tắt “loạn ngôn ngữ”: “Ilu”: I love you (anh yêu em), “Sul”: See you later (hẹn gặp lại sau), “G9”: Good night (chúc ngủ ngon)… Bên cạnh đó, các em thêm bớt, làm đảo lộn cả những câu ca dao, tục ngữ để làm danh ngôn sống cho riêng mình: “Học chi cho đau xót trái tim non/ Tú Xương còn rớt huống chi con”, “Trăm năm Kiều vẫn là Kiều/ Học sinh thi lại là điều tất nhiên”, “Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời chơi nét mà không vương tình”, “Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con sẽ theo trai/ Em út ba gửi dì hai/ Để ba có dịp ba qua thăm dì”, “Chớ chê em xấu, em già/ Em đi spa lại, đẹp ra bây giờ”...
3. Việc sử dụng tiếng lóng của giới trẻ hiện nay là phổ biến, tùy tiện và khó kiểm soát; trong khi đó, gia đình, nhà trường và xã hội chưa làm tốt chức năng giáo dục giới trẻ sử dụng ngôn ngữ tiếng lóng đúng mực. Chúng ta nên giáo dục, định hướng các em giao tiếp theo chiều hướng tích cực, đúng cách, đúng lúc, đúng nơi và đúng chuẩn. Song song đó chính bản thân các em cũng cần coi trọng và có trách nhiệm trong việc sử dụng, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Có như vậy, kho tàng ngôn ngữ của Việt Nam sẽ ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
2
Nguyễn Minh Vũ
01/12/2019 21:23:08
Có một thực tế là, ngôn ngữ của giới trẻ ngày nay, nhất là của thế hệ 9X, 10X đang có nhiều thay đổi.
Một trong những biểu hiện của sự thay đổi ấy là ngôn ngữ “chat”, tiếng lóng đã xuất hiện trong quá trình giao tiếp và ngày càng có xu hướng lan rộng trong giới trẻ.
Sự phát triển với tốc độ nhanh của internet, các trang mạng xã hội và việc hấp thu các yếu tố của ngôn ngữ nước ngoài, nhu cầu muốn thể hiện bản sắc, cái tôi riêng có thể xem là những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới hiện tượng nêu trên.
Việc sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ “chat” đã lan rộng như một trào lưu từ nông thôn đến thành thị.
Ban đầu, những từ mới, cách diễn đạt mới chỉ được chấp nhận trong một nhóm người nhất định.
Nhưng sau đó, nhờ sự trợ giúp của các phương tiện công nghệ hiện đại như: điện thoại di động, mạng internet… tiếng lóng và ngôn ngữ “chat” nhanh chóng được lan rộng và trở nên phổ biến.
Trong giao tiếp hàng ngày, tiếng lóng đang được giới trẻ “hồn nhiên” sử dụng.
Một trong những phương thức sử dụng tiếng lóng hiện nay là dùng các từ loại như: danh từ, động từ, tính từ… để nhấn mạnh hoặc gây sự chú ý đối với sự việc được nói tới.
Chẳng hạn như: “giờ cao su”, “chim cú”, “a cay”, “xà lách”… (GDVN) - Nhóm Cánh Buồm đã chính thức công bố công trình dự thảo bộ sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 đến lớp 9.
Việc sử dụng tiếng lóng trong ngôn ngữ giao tiếp được xem như là một thứ “tín hiệu” giữa những người cùng trang lứa.
Trong sự phát triển của nhịp sống hiện đại, với lối sống nhanh, năng động, không ít người đã mặc nhiên sử dụng tiếng lóng khi giao tiếp với mục đích tạo ra cảm giác mới mẻ, gần gũi.
Tuy nhiên, tiếng lóng được sử dụng tùy hứng, bừa bãi, không phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp lại thành ra phản cảm.
Thậm chí, trong nhiều trường hợp, tiếng lóng bị lạm dụng trở nên thô tục, chẳng hạn: hỏi thăm sức khỏe người lớn tuổi thì “Sức khỏe của bác có ngon không?”, hay muốn hỏi bạn đã ăn cơm chưa thì "Mày đã đớp chưa?"…
Chính cách nói chướng tai này khiến cho đối tượng giao tiếp và cả những người xung quanh lắm lúc cảm thấy khó chịu, phật lòng.
Một hiện tượng lệch lạc khác trong việc sử dụng tiếng lóng của giới trẻ là sự lai căng, pha tạp giữa tiếng “Tây” với tiếng “Ta”.
Thói quen “pha” tiếng Anh vào lời nói như là cách để thể hiện “đẳng cấp” và khả năng ngoại ngữ khiến một số người đã không ngần ngại đệm tiếng “Tây” vào trong lời nói của mình ngay cả khi đang giao tiếp với người lớn tuổi.
Chẳng hạn như:“sory chị”, “Thanh kiu bác”, “ô kê thầy”...
Việc “phối hợp” ngôn ngữ bừa bãi, tùy tiện như vậy đã làm mất đi sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.
Bên cạnh việc sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ “chat” cũng đang xuất hiện và lây lan với tốc độ nhanh trong giới trẻ.
Đáng nói là, ngôn ngữ “chat” đã thâm nhập cả vào đời sống học đường.
Không chỉ được sử dụng trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ “@” còn xuất hiện cả trong khi diễn đạt bằng ngôn ngữ viết của học sinh.
Từ thói quen sử dụng thứ ngôn ngữ này để nhắn tin hay trao đổi thông tin trên internet, ngôn ngữ “chat” còn được nhiều học sinh sử dụng khi chép bài học.
Thậm chí, nó còn được sử dụng trong các bài kiểm tra. Không chỉ trong các bài kiểm tra thông thường trên lớp, ngay cả trong những kỳ thi quan trọng, vẫn có những học sinh sử dụng ngôn ngữ “chat” trong bài làm của mình.
Những từ được sử dụng nhiều như: “ah” (à), “ko” (không), “bit” (biết), “of” (của), “thik” (thích), “wa” (quá), “bih” (bây giờ)…
Một số học sinh cho rằng, sử dụng ngôn ngữ “chat” thường xuyên sẽ góp phần tiết kiệm thời gian do rút ngắn bớt các từ.
Bên cạnh đó, còn là cách để thể hiện cá tính riêng của mình, nếu học sinh nào không sử dụng thì bị coi là lỗi thời, lạc hậu, không “sành điệu”.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, nhiều giáo viên nhất là giáo viên dạy môn Ngữ văn cho biết: nhiều khi đọc bài kiểm tra của học sinh mà không hiểu các em đang viết gì vì bài thi sử dụng quá nhiều ngôn ngữ ký tự, ký hiệu.
Như vậy, việc lạm dụng ngôn ngữ “chat” trong học tập trong một thời gian dài có thể gây ra những hệ quả tiêu cực, khiến cho học sinh quên đi cách sử dụng từ ngữ theo đúng chuẩn mực, gây trở ngại trong quá trình giao tiếp với những người “không cùng thế hệ”.
Xa hơn, khi thường xuyên sử dụng thứ ngôn ngữ này một cách bừa bãi có thể ít nhiều ảnh hưởng tới tính cách như: tùy tiện, hời hợt, cẩu thả…
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Cùng với sự biến đổi của thời gian, đời sống xã hội, ngôn ngữ tất yếu cũng có sự thay đổi.
Giới trẻ ngày nay đang sống trong một xã hội hiện đại với nhịp sống hối hả, năng động.
Việc một bộ phận giới trẻ có những “sáng tạo” riêng khi sử dụng ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp để việc giao tiếp sinh động hơn cũng là điều dễ hiểu.
Mặc dù vậy, tình trạng giới trẻ sử dụng tiếng lóng tràn lan, vô tội vạ, mọi lúc, mọi nơi, không phù hợp với hoàn cảnh và môi trường giao tiếp là vấn đề cần được quan tâm.
Không thể phủ nhận một cách cực đoan việc sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ “chat”.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính chuẩn mực và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, qua các giờ học, giáo viên cần tinh tế khơi gợi cho học sinh niềm tự hào đối với tiếng Việt, giúp các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống hằng ngày, nhà trường cần phối hợp với gia đình trong việc nhắc nhở, điều chỉnh khi giới trẻ lạm dụng tiếng lóng, ngôn ngữ “chat” trong quá trình giao tiếp, nhất là khi tạo lập các văn bản đòi hỏi tính chuẩn mực cao.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư