Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Chứng minh thơ Hồ Chí Minh có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhụy giữa chất thép và chất trữ tình, giữa tính cổ điển và tính hiện đại qua bài thơ ''Ngắm Trăng''

3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.607
1
0
Đỗ Chí Dũng
06/07/2020 16:42:32
+5đ tặng
I. Mở bài

-  Bác Hồ không có ý định trở thành nhà thơ, nhưng thực tế. Người lại là nhà thơ lớn.

-  Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình khi tìm hiểu thơ Hồ Chí Minh đều nhất trí là chất trữ tình và chất thép trong thư Người hòa hợp một cách nhuần nhụy.

II. Thân bài

A. GIẢI THÍCH

1. Thế nào là chất trữ tình ?

Chất trữ tình trong thơ là những cảm xúc, rung động của nhà thơ trước cái đẹp (của tạo vật, của tình người).

2. Thế nào là chất thép?

Chất thép trong thơ là tính chiến đấu, là ý chí bất khuất kiên cường, niềm lạc quan tin tưởng... vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng.

3. Thế nào là sự hòa hợp nhuần nhụy chất trữ tình và chất thép?

Đó là sự gắn bó, xen cài chặt chẽ không thể tách rời được giữa cảm xúc, rung động về cái đẹp và khát vọng chiến đấu, ý chí nghị lực... của nhà thơ.

B. CHỨNG MINH

1. Chất trữ tình và chất thép trong thơ Hồ Chí Minh hòa hợp một cách nhuần nhụy.

- Phần lớn thơ Người được sáng tác trong hai thời kì:
+ Năm 1912 đến 1943, lúc Người bị nhà cầm quyền Trung Quốc (cũ) bắt giam.
+ Thời kì ở Việt Bắc.

- Sự hòa hợp nhuần nhụy hai yếu tố chất trữ tình và chất thép trong Nhật kí trong tù (sáng tác trong thời gian từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943):

Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù nói lên cảm xúc, rung động của Hồ Chí Minh trước vẻ đẹp thiên nhiên. Đó là tình yêu trăng:

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
(Ngắm trăng)

Đó là niềm vui say với chim, núi, hoa rừng trên đường bị giải đi:

Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta dừng
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu
(Trên đường)

Đó là niềm vui trước cảnh sống của người dân Trung Quốc (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh, Cánh đồng nội...).

Đặt các bài thơ trên vào hoàn cảnh cụ thể (bị tù đày, đời sống của người tù vô cùng gian khổ, tuổi cao, đói rét, bệnh tật), ta mới thấy hết sức sống mạnh mẽ của Hồ Chí Minh: lạc quan, yêu con người, cuộc sống. Đó chính là chất thép trong thơ Người.

Sự hòa hợp nhuần nhụy chất trữ tình và chất thép trong các bài thơ của Người sáng tác thời kì ở Việt Bắc ( 1945 - 1954);

Thời kì này, Người rất bận rộn. Tuy vậy lúc rỗi, có cảm hứng, Người vẫn sáng tác thơ. Số lượng tuy không nhiều (khoảng vài chục bài) nhưng ấn tượng để lại trong lòng người đọc rất sâu sắc. Phần lớn các bài thơ (Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Tặng cụ Bùi, Cảnh rừng Việt Bắc, Không đề) đều nói lên xúc cảm của tác giả trước cảnh đẹp của núi rừng Việt Bắc, tình cảm đối với bạn bè, đối với nhân dân, đất nước. Đó là yếu tố trữ tình trong thơ Người.

Nhưng mặt khác, qua các bài thơ trên. Người thể hiện phong thái ung dung, niềm lạc quan tin tưởng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc:

Tin vui thắng trận dồn chân ngựa,
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.
(Tặng cụ Bùi)

Hoặc:

Việc quân, việc nước đã bàn.
Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau.
(Không đề)

Thời kì này, cuộc kháng chiến chống Pháp ở vào giai đoạn rất khó khăn. Đời sống Việt Bắc thiếu thốn, Bác đã gần sáu mươi tuổi... Đặt tác phẩm vào hoàn cảnh cụ thể, ta càng thấy rõ chất thép trong thơ Người.

2. Vì sao chất thép và chất trữ tình lại hòa hợp nhuần nhụy trong thơ Hồ Chí Minh?

- Hồ Chí Minh là nhà thơ - chiến sĩ. Thép là tính chiến đấu củạ người chiến sĩ, tình là chất thơ của nhà thi sĩ. Bởi vậy, thép và tình trong thơ Người hòa hợp với nhau nhuần nhụy.

Đó là nét phong cách của thơ Hồ Chí Minh “Giữa hai con người - con người chiến  sĩ cách mạng và con người văn nghệ - con người nào nói bật lì hát trong thơ cụ Hồ. Câu hỏi đó đến với ta tự nhiên, nhưng thực ra không có câu hỏi nào sai lầm hơn... Người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập của Việt Nam, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình bằng hình ảnh một cách tự nhiên, với cốt cách một thi nhân, ở tác giả, con người chiến sĩ cộng sản và con người nghệ sĩ kiểu mới chỉ là một” (Bu-đa-ren - Một cốt cách cổ điển và những sáng tạo hiện đại - Nghiên cứu văn học, số 7. 1960).

III. Kết bài

- Sự hòa hợp nhuần nhụy giữa chất trữ tình và chất thép là điểm đặc sắc nổi bật trong thư Hồ Chí Minh. Thơ cổ điển thiên về trình bày cảm xúc đối với thiên nhiên:

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)

Thơ của các chiến sĩ cách mạng thì hình ảnh nổi bật vẫn là người chiến sĩ, âm hưởng chủ đạo là âm hưởng của chất thép.
- Sự hòa hợp nhuần nhụy đó đã làm cho thơ Người “thực sự là thơ, là thơ của thời đại mới”

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Simple love
06/07/2020 16:47:36
+4đ tặng
hhhhhhhhhhhhhh

răng vốn là người bạn tâm tình, là nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận của thi sĩ muôn đời. Trong thơ đông tây kim cổ đã có biết bao bài thơ hay viết về trăng, để lại ấn tượng không phai trong trái tim người đọc. Một trong những tác giả viết nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời cách mạng gian truân và vẻ vang của Bác, Bác luôn coi trăng là tri âm, tri kỉ.

Bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù tăm tối của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, vào khoảng những năm bốn mươi hai, bốn mươi ba của thế kỉ XX. Người tù thi sĩ tay bị xích, chân bị cùm, thân thể đọa đày nơi ngục lạnh mà tâm hổn vẫn lâng lâng, thanh thản, say mê thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng sáng:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,

Đối thù lương tiêu nại nhược hà?

(Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;)

Câu thơ đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa. Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ? Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là chuyện thường tình. Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường đem rượu ra uống để thưởng hoa, thưởng trăng. Có đầy đủ rượu và hoa thì cuộc vui mới thật thú vị, mĩ mãn. Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhưng ở đây, thi sĩ ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù mà bản thân bị đày đọa cực khổ, phải sống cuộc sống “khác loài người”, không phù hợp với thú thưởng nguyệt thanh cao. Làm gì có rượu và hoa để thưởng trăng? Chẳng có nhà tù nào lại “nhân đạo” đến mức mỗi kì trăng sáng lại mang rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng. Ý thơ chỉ có thể hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp, thi sĩ bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn.

Mặc dù giữa chốn lao tù, cái không rượu chồng lên cái không hoa…, hiện thực xám ngắt và lạnh lẽo phủ định tất cả, nhưng trong trái tim yêu đời thiết tha của Bác, cảm hứng vẫn dạt dào, nồng đượm khiến Người phải thốt lên: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Câu thơ thể hiện niềm xao xuyến, rạo rực của Bác trước đêm trăng đẹp. vầng trăng tròn đầy, ngời sáng kia như thúc giục, mời gọi thi nhân hãy ra giữa chốn tự do mà chiêm ngưỡng, mà bầu bạn với trăng. Ngặt nỗi hoàn cảnh giam cầm trói buộc cho nên việc thưởng trăng của người tù – thi sĩ chỉ thu gọn trong một cử chĩ âm thầm, lặng lẽ:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Bác say mê ngắm trăng qua cửa sổ. Bốn bức tường xà lim chật hẹp không ngăn nổi cảm xúc mênh mông. Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó khát vọng tự do cháy bỏng. Dường như thi sĩ muốn nhắn gửi đến trăng lời thì thầm tâm sự: Trăng ơi, trăng có hiểu lòng ta yêu trăng đến độ nào?.

Sự thổ lộ, giãi bày chân thành tự trong sâu thẳm hồn người đã được trăng cảm động và chia sẻ. Vầng trăng lung linh bỗng chốc biến thành bạn tri âm, tri kỉ:

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Vầng trăng đã vượt qua song sắt để ngắm nhà thơ (khán thi gia) trong tù. Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau. Nghệ thuật nhân hóa cho thấy thi sĩ tù nhân và vầng trăng tự do đã trở nên gắn bó thân thiết tự bao giờ.

Cả bài thơ không có một âm thanh nào dù là nhỏ. Không gian tĩnh lặng tuyệt đối tôn lên cái sâu thẳm của hồn người và hồn tạo vật. Người ngắm trăng, trăng ngắm người trong lặng lẽ, không nói mà nói bao điều.

Hai câu thơ còn cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người tù thi sĩ ấy. Trong này là nhà lao đen tối, là hiện thực tàn bạo, còn ngoài kia là vầng trăng thơ mộng, là thế giới của tự do, của vẻ đẹp lãng mạn làm say đắm lòng người. Giữa hai đối cực đó là song sắt nhà tù, nhưng song sắt nhà tù cũng bất lực trước khát vọng và rung cảm tinh tế của hồn thơ.

Hai câu thơ chữ Hán trong nguyên tác thể hiện đầy đủ hơn mối giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ với vầng trăng. Lối đối rất chỉnh đã làm nổi bật tình cảm mãnh liệt của cả người và trăng. Giữa nhân và nguyệt dẫu có song sắt nhà tù chắn giữa nhưng con người đã để tâm hồn bay bổng vượt ra ngoài không gian chật hẹp, tù hãm để ngắm trăng sáng (Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt), tức là để bầu bạn. với vầng trăng đang tự do tỏa mộng giữa trời. Trăng dường như cũng hiểu lòng người và nhiệt thành đền đáp lại: Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ (Nguyệt tòng song khích khán thi gia).

Bài thơ Ngắm trăng vừa thể hiện tình cảm yêu mến thiên nhiên tha thiết của thi sĩ Hồ Chí Minh, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đằng sau những câu thơ đậm đà phong vị cổ điển ấy là một tinh thần thép, biểu hiện ở khát vọng tự do, ở phong thái ung dung, vượt hẳn lên sự đè nén, áp bức nặng nề tàn bạo chốn lao tù.

Qua bài thơ, người đọc cảm thấy người tù cách mạng dường như bất chấp cả song sắt can ngăn, không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở,… của chế độ nhà tù khủng khiếp để tâm hồn bay bổng tìm đến với vầng trăng thân thiết.

Ánh sáng ngời ngời của vầng trăng đã đẩy lùi bóng tối ngột ngạt, u ám của nhà tù. Giữa Bác và trăng – nhà thơ tự do và thiên nhiên vĩnh cửu – có một mối giao hòa thiêng liêng, khó tả. Cũng như bao lần khác, trong hoàn cảnh gian nan, Bác vẫn hướng cái nhìn vào vầng trăng, như hướng tới Cái Đẹp của cuộc đời.

Bài thơ Ngắm trăng là một dẫn chứng sinh động chứng minh cho hai câu thơ mà Hồ Chí Minh viết ngoài bìa tập Nhật ký trong tù: Thân thể ở trong lao, Tình thần ở ngoài lao. Giữa bao bài thơ trăng của Bác, bài Ngắm trăng có vẻ đẹp giản dị và khác lạ. Bốn câu, hai mươi tám chữ, ngắn gọn mà hàm chứa ý nghĩa tuyệt vời sâu sắc về tâm hồn, đạo đức, phẩm giá và phong cách của một Con Người chân chính: Hồ Chí Minh.

hđầu trần trụi như một bản liệt kê. Tác giả viết: "Trong tù không rượu cũng không hoa. Ý thơ tả thực cảnh sống của người tù, ngay cả cơm ăn nước uống còn thiếu, làm gì có nổi rượu và hoa? Nhưng tới câu: “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ thì không phải là một việc cố nhiên nữa. Trong nguyên bản câu thơ thứ hai này được thể hiện dưới dạng một câu hỏi: “Đối thử lương tiêu nại nhược hà” (trước cảnh đẹp đêm nay ta biết, là thế nào đây). Thấy trăng đẹp mà bối rối cả tâm trí nhà thơ như vừa tự hỏi mình vừa giãi bày hoàn cảnh với người khách quý. Trong ba yếu tố thưởng nguyệt thì ở đây thiếu tới hai yếu tố (rượu và hoa). Liệu chi bằng mộ một tấm lòng, một tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ có thể thưởng nguyệt dược chăng? Trong hai câu thơ cuối, nhà thơ tự khách thể hóa, tự tách mhoi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

Theo ý thơ, cả hai nhg nói nhưng đã hiểu hết lòng nhau. Nếu để ý kĩ, trước cuộc ngắm trăng, đấy là một người tù (nhân), sau cuộc ngắm trăng người tù biến mất và xuất hiện một nhà thơ (thi gia). Chi tiết này cho ta thấy chất lãng mạn bay bổng của Hồ Chí Minh, một người trong bất kì hoàn cảnh nào cũng giữ được phong cách ung dung, tự chủ, yêu đời, yêu thiên nhiên... Ngắm trăng không hề có một từ thép, một chất liệu thép. 

0
0
Simple love
06/07/2020 16:47:57
+3đ tặng

Ngắm trăng là một kiệt tác trong tập thơ Nhật kí trong tù. Bài thơ này kết hợp một cách hài hòa giữa cảm xúc trữ tình và chất thép, giữa cổ điển và hiện đại. Đề tài cùa bài thơ rất quen thuộc được thể hiện ngay trong tiêu đề Ngắm trăng. Từ xưa đến nay đã bao người “ngắm trăng’’ và làm thơ về vẻ đẹp huyền diệu của vầng trăng, về mối quan hệ thân thiết gần gũi giữa trăng và người, nhưng trong tù mà vần ngắm trăng, vẫn làm thơ về trăng thì có lẽ chỉ có Hồ Chí Minh. Chất thép của bài thơ này được thể hiện qua hoàn cảnh ngắm trăng đặc biệt ấy. Câu thơ mở đầu trần trụi như một bản liệt kê. Tác giả viết: "Trong tù không rượu cũng không hoa. Ý thơ tả thực cảnh sống của người tù, ngay cả cơm ăn nước uống còn thiếu, làm gì có nổi rượu và hoa? Nhưng tới câu: “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ thì không phải là một việc cố nhiên nữa. Trong nguyên bản câu thơ thứ hai này được thể hiện dưới dạng một câu hỏi: “Đối thử lương tiêu nại nhược hà” (trước cảnh đẹp đêm nay ta biết, là thế nào đây). Thấy trăng đẹp mà bối rối cả tâm trí nhà thơ như vừa tự hỏi mình vừa giãi bày hoàn cảnh với người khách quý. Trong ba yếu tố thưởng nguyệt thì ở đây thiếu tới hai yếu tố (rượu và hoa). Liệu chi bằng mộ một tấm lòng, một tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ có thể thưởng nguyệt dược chăng? Trong hai câu thơ cuối, nhà thơ tự khách thể hóa, tự tách mình ra để nhìn sự vật sự việc một cách khách quan để miêu tả hai nhân vật: Thi sĩ và vầng trăng trong một mối quan hệ gần gũi, thân thiết.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

Theo ý thơ, cả hai nhân vật trữ tình đều rất chủ động trong việc khắc phục, vượt trên hoàn cảnh để đến được với nhau. Người thì hướng về cửa sổ để đón trăng còn trăng thì theo khe cửa mà vào ngắm nhà thơ. Hoạt động của hai nhân vật trữ tình tập trung vào ngôn ngữ không lời của thị giác. Đó chính là cuộc đàm tâm của những người tri kỉ chỉ nhìn nhau, không nói nhưng đã hiểu hết lòng nhau. Nếu để ý kĩ, trước cuộc ngắm trăng, đấy là một người tù (nhân), sau cuộc ngắm trăng người tù biến mất và xuất hiện một nhà thơ (thi gia). Chi tiết này cho ta thấy chất lãng mạn bay bổng của Hồ Chí Minh, một người trong bất kì hoàn cảnh nào cũng giữ được phong cách ung dung, tự chủ, yêu đời, yêu thiên nhiên... Ngắm trăng không hề có một từ thép, một chất liệu thép. Nếu có chăng đây chính là chất thép được nhận ra từ vẻ đẹp của chủ thể trữ tình trong việc hướng về ánh sáng, hướng về về đẹp của thiên nhiên trong tư thế của một thi nhân hoàn toàn tự do về tâm hồn.hhhhhh

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo