“Tre xanh xanh tự bao giờ
Truyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Cây tre với làng quê Việt Nam từ lâu đã gắn bó sâu đậm. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Khi yên bình, tre dịu dàng tỏa bóng mát, khi có chiến tranh, tre vùng lên chống lại. Người đi xa quê, nhớ về làng xóm cũ, hình ảnh đầu tiên hiện lên ắt hẳn là lũy tre xanh cong cong dưới ánh trăng làng
Bà tôi là thầy thuốc Đông y, bà bảo Tre thuộc Bộ Hòa thảo, Phân họ Tre, Tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và được coi là lớn nhất trong Bộ Hòa thảo. Cũng như bao loài cây, tre cũng có hoa, nhưng hoa tre hiếm hoi chỉ nở vào những năm cuối đời tre, chỉ đến lúc tre sắp từ giã cõi đời mới để lại những kết tinh đẹp nhất. Tôi rất thích những mùa tre nở hoa khoảng 5 - 60 năm một lần, bởi cái mùi hương rất lạ của nó, nồng nồng và cái màu vàng đất làm tôi không ngừng liên tưởng tới mảnh đất quê hương. Cây tre rất cao, lớn dần theo thời gian, khi nhỏ cao tầm 3, 4 m, càng lớn càng cao, có thể cao tới 5,6m. Tre cũng có rất nhiều loại, tre Đồng Nai, tre Điện Biên, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn,… đều là họ hàng nhà tre
Ban đầu, tre chỉ là những măng non nhỏ, hình nón trụ nhọn dần về phía ngọn. Bao quanh thân hình nõn nà mới lớn của măng là những lớp áo cộc mà mẹ tre đã dành cho nó. Kế thừa đức tính mẹ cha, măng non khi mới mọc đã thẳng đứng, không nghiêng ngả, không xiêu vẹo, hiên ngang như dáng đứng Việt Nam. Ngày qua ngày, măng hấp thụ chất dinh dưỡng từ đất đai và sương nắng quê hương mà lớn dần thành những cây tre xanh. Tre sinh sôi nảy nở rất tốt, đất đai sỏi đá mấy tre cũng lớn. Khi đủ lớn và trưởng thành, thân tre gầy guộc hình ống, nhưng không đặc mà rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tre rất dẻo dai, bền bỉ và hiên ngang, trải bao mùa mưa nắng vẫn kiên cường mà đứng lên. Trên khắp thân cây, tre trang bị cho mình tấm áo giáp đầy gai nhọn để chống chọi lại với muôn vàn chất xúc tác đáng sợ của cuộc đời. Lá của tre rất mỏng manh thôi, nhuộm một màu xanh non mơn mởn in rõ những họa tiết là những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan xuôi ngược trên dòng sông quê êm đềm. Rễ tre thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ. Chính bộ rễ mộc mạc này đã để lại cho tre một sức sống mãnh liệt không hề dễ bị quật ngã. Tôi vẫn nhớ những câu thơ của Nguyễn Duy:
“Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo
Cây bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Nghiêng mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành”
Dưới bóng tre, một nền văn hóa lâu đời đã sinh ra và lớn lên. Ngày xưa, đầu mỗi làng nếu không là cây đa thì là nhwungx khóm tre. Tre dựng thành bức tường thành bảo vệ, che chắn cho cuộc sống con người. Mỗi ngày đi làm đồng về, dưới cái nắng thiêu đốt của mùa hè rũ rượi, những người nông dân đều cùng nhau ngồi nghỉ dưới gốc tre, uongs nước và trò chuyện về chuyện đời, chuyện mùa. Dưới bóng tre, bao nhiêu câu ca đã sinh ra và còn lưu truyền mãi mãi đến đời sau. Đối với những đứa trẻ, chẳng có gì thú vị hơn mỗi chiều chăn trâu nghỉ ngơi dưới gốc tre chơi bắn bi, đánh chuyền, ô ăn quan,… Những đứa trẻ ấy lớn lên bằng dòng sữa mẹ, nhưng đều trưởng thành dưới bóng tre.
Tre gắn với con người không chỉ vì vẻ bề ngoài của nó mà còn rất nhiều công dụng khác nữa. thân tre dẻo dai để làm đồ gia dụng, làm cột nhà, làm đũa, làm máng nước, làm rổ rá. Măng non hái về thái ra nấu ăn cũng rất thơm và ngọt, đặc biệt là món canh măng đã gây thương nhớ rất nhiều cho tuổi thơ tôi.
Ngày nay loài tre đã vươn mình ra thế giới. Người Việt kiều yêu nước nọ mang tre theo sang đất Pháp nuôi trồng.. Thế mà ở xứ lạ, tre vẫn sống vững vàng, vẫn không hổ mang cốt cách kiên cường người Việt nam. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre cũng vẫn sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền - đức tính Việt Nam.