Đọc văn bản và trả lời câu hỏi
I. ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)Đọc văn bản:
(1) Đời tôi, đi đầy đó đã nhiều, nhưng lại rất hiểm dịp được thấy Hà Nội. Chi một lần thuở bé, rồi một lần hỏi chiến tranh, và mấy
năm sau này thêm đôi lần nữa. Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết một ngôi nhà là nhà
ga Hàng Cổ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những néo đường của kỹ
ức, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bảng dáng của Hà Nội phổ xá. Cái thành phố sâu thẳm, xa lạ chẳng chút thần
thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, đầu rằng đấy là một tình thân yêu
tưởng như không đâu, một duyễn nợ hầu như vô cớ. Không hẳn là một nỗi niềm mà chỉ là bằng qua một cảm giác, không thành một cầu
chuyện mà chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng
suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.
(2) Từ bẩy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực
(3) Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi,
thành phố đang ngất trời bom đạn. Đây thực sự là cuộc đụng đầu sống mãi, một trận quyết chiến vì lẽ mất còn. Giữa huồng cảnh chung
nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng gì một chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phổ để rải non chục lá thư của anh em đồng
đội người Hà Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để có thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho linh
ta sướng. Lựa ngày Nô-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình điện.
(4) Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cô
phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.
(5) Mặc dù không biết phổ nào vào với phổ nào, lại ôm trong mình những chín là thư, nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc gì phải
lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ đẩy lần lượt nhờ người ở địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt cuộc, cả chín là
thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường như cả Hà Nội đã khoả trái cửa, bỏ nhà đẩy mà đi.
(6) Xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong mưa, tù mù những vùng đèn đường. Tôi hỏi được
về Vọng. Một anh dân phòng diện ủng, vận ảo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khả xa đường. Đến ngã ba nọ, trước khi chia tay, anh
chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát via hè và bảo tôi cử bảm theo đó mà đi là đến.
() Sụp mũ cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray loáng
ướt, chẳng khác nào một lỗi mòn độc đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phổ chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang
vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành,
không bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngẩm vào tận cái dạ dày tôi trống rỗng. Các khớp xương công nhức cũng
đo như đảng rời cả ra và rơi rụng. Cơn sốt âm i từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt rùng mình Đầu
óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át nha
đông lại. Không nhìn thấy gì trước mắt, suýt nữa thì tôi đã xỗ người tới va mặt vào một
cải đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa
lòng đường.
(8) Chệch choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đào tấp vào dưới mái hiên một ngôi nhà. Răng và lập cập trong miệng, tối tựa lưng
vào cảnh cửa đóng chặt, rồi từ từ
trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa và lạnh như một cây nước đá. Rết
mưới buốt tim, tôi rên hừ hừ và rồi cũng không rên nổi nữa. Cũng không sao ghìm lại được cơn run, cử run bắn lên, run cầm cập. Thần
nhiệt của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cải đầu đã tê cóng của tôi lờ đờ nghĩ, không khẻo mà khôn đến
nơi rồi, không khéo mà là một cơn ác tính. Những người bị sốt rét ác tỉnh nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình thì chết ngồi, chắc
thế, và sẽ hoả thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.
(9) Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa.
tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biểt là cần phải dốc toàn lực bình sinh mà đứng dậy và bước đi, song hết rồi, nghị lực đã tê bại. Sinh lực
xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy, sự sống trong tôi xoay tròn một vòng và từ từ, lặng lẽ lật nghiêng. Đúng
khi đó, sau lưng tôi, cửa kẹt mở. Tôi nghe thấy nhưng mà không ý thức được tiếng động ấy. Con choáng ngất gần như là một nỗi yêu
mềm, một sự buông lơi, như thể một tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi...
(Trích “Khắc dấu mạn thuyền”, Bảo Ninh, nguồn https://kilopad.com/Tieu-thuvet-truyen-ngan-c197/doc-sach-true-haven-khac-
dau-man-thuven-b9317)
Chú thích
Nhà văn Bảo Ninh tên thật là Hoàng Âu Phương, sinh năm 1952, tại Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quê ông ở Xã Bảo Ninh, huyện
Quảng Ninh (nay thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình. Ông vào bộ đội năm 1969, chiến đấu ở mặt trận Tây Nguyên. Sau 1975,
ông giải ngũ, học đại học, rồi làm ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984 - 1986, ông học khoả 2 trường viết văn Nguyễn Du (nay là khoa
Viết văn - Báo chí, Đại học Văn hoa Hà Nội). Sau đó, ông làm báo, viết văn ở Hà Nội. Bảo Ninh được biết tới với những tác phẩm viết
về đề tài chiến tranh và hậu chiến, mà nổi tiếng nhất là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh", in lần đầu với tên gọi “Thân phận của tình
yêu” (1990). Tác phẩm được đánh giá là tiểu thuyết viết về chiến tranh hay nhất trong văn học hiện đại Việt Nam, được dịch và xuất bản
ở 20 quốc gia, giúp nhà văn đạt nhiều giải thưởng cao quý như giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam 1991, giải thưởng văn học châu Á
(2018). Ngoài ra, Bảo Ninh còn được biết đến là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông là nhà văn có nhiều đóng góp trọng trong công cuộc
đổi mới văn xuôi Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau 1975 tới nay.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (0.5 điểm). Trong đoạn trích, bức tranh Hà Nội được miêu tả vào thời gian nào?
Câu 2 (0.5 điểm). Xác định ngôi kể của người kể chuyện trong văn bản.
Câu 3 (0.5 điểm). Chỉ rõ sự thay đổi điểm nhìn của người kể chuyện ở đoạn (1) và đoạn (3).
Câu 4 (0.5 điểm). Xác định ít nhất một đặc điểm của ngôn ngữ văn học được thể hiện trong đoạn (8).
Câu 5 (0.75 điểm). Xác định chủ đề của văn bàn và căn cứ để xác định chủ đề ấy.
Câu 6 (0.5 điểm). Anh/ chị có nhận xét gì về khung cảnh Hà Nội trong câu văn sau: “Thành phố, dưới mưa chiều. Ma phần
mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phỏng rất nhanh, người đi bộ gấp bước "
Câu 7 (0.75 điểm). Đoạn trích giúp anh/ chị hiểu gì về những người lính trở về sau chiến tranh?
Câu 8 (1.0 điểm). Đoạn trích có đề cập đến sự hi sinh của những người lính trong chiến tranh. Theo anh/ chị, sự hì sinh có cần
thiết với mỗi người trong cuộc sống hiện nay?
II. VIẾT (5.0 điểm)
Viết bài văn nghi luận nhân tích và đánh giá những đặc sắc trong cách kể của tác giả Bảo Ninh qua đoạn trích trên
0 trả lời
4.802