LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Anh chị hãy viết một bài văn thuyết minh về vị anh hùng dân tộc mang tên Lê Lợi

Anh chị hãy viết một bài văn thuyết minh về vị anh hùng dân tộc mang tên Lê Lợi

3 trả lời
Hỏi chi tiết
2.315
2
2
Need not to know
06/03/2020 21:00:05

Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới...

 

 

 Lê Lợi - Vị anh hùng giải phóng dân tộc

 

Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm Ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương (anh lớn của ông tên Học, anh thứ là Trư). Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.

Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:

Đất hiểm trở từ nay không còn,

Núi sông đã vào chung một bản đồ.

Đề thơ khắc vào núi đá

Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.

Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.

Lê Lợi trong 5 năm làm vua, có những công lao to lớn. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Need not to know
06/03/2020 21:01:25

Thời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại.

Bị quân Minh vây đánh, nghĩa quân Lam Sơn nhiều phen khốn đốn. Riêng trên địa bàn huyện Lang Chánh ngày nay, Chủ tướng Lam Sơn và nghĩa quân ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh vào những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ có cái ăn. Một lần bị địch vây gắt ở núi Chí Linh năm 1418 (có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, Lê Lai phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ngênh địch, chiến đấu anh dũng và hy sinh lẫm liệt. Câu chuyện nổi tiếng về lòng trung thành trong sử Việt còn lưu truyền đến tận ngày hôm nay qua câu ca dao: Hai mốt Lê Lai, hai hai Lê Lợi.... Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường chạy thoát. Sau này, trước sự khủng bố, tàn sát dã man của quân giặc, Lê Lợi còn không ít lần lui quân về địa bàn rừng núi Lang Chánh để củng cố và bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến phía trước. Đồng bào dân tộc ở địa bàn Lang Chánh đã đùm bọc, đồng cam cộng khổ cùng nghĩa quân chiến đấu với quân thù. Đây được xem là địa bàn chiến lược để nghĩa quân nương náu và phát triển hùng mạnh, giành thắng lợi sau này.

Nhờ vào địa hình phức tạp của vùng núi Chí Linh, mà sau ba lần phải rút lên cố thủ, Bộ Chỉ huy Lam Sơn được bảo toàn, dẫn đến việc nghị hòa với giặc Minh năm 1422, tạo điều kiện cho nghĩa quân xem xét thời sự và quyết định Nam tiến, đánh chiếm Nghệ An theo kế hoạch Nguyễn Chích năm 1424. Từ Nghệ An, Lê Thái Tổ chỉ cần mất 3 năm để đánh thẳng ra Đông Quan, tiêu diệt toàn bộ quân địch đồn trú và viện binh kéo sang, đánh đuổi hoàn toàn quân Minh xâm lược và phải thất bại thảm hại, quay đầu tháo chạy về nước.

Dù 3 lần trải qua gian lao vất vả, nhưng cuối cùng đại nghiệp phục quốc thành công. Nhớ về những năm đầu khởi nghĩa ẩn mình dưới ngọn núi thiêng Pù Rinh, trong bài Chí Linh sơn phú, đã được thi hào Nguyễn Trãi cảm tác: Dựng nước thành công nhiều khó nhọc /Miền Tây sông núi hẳn anh linh... Vua ta ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sáng/Vợ con lưu lạc, quân sĩ tha phương/ Trong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượng.

600 năm trôi qua, những câu chuyện cảm động về Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu ác liệt với quân giặc trên vùng đất Pù Rinh núi cao hiểm trở, rậm rạp vẫn lưu lại trong trí nhớ của các thế hệ đồng bào các dân tộc huyện Lang Chánh. Và được kể lại với nhiều truyền thuyết, sự tích về các sự kiện lịch sử, địa danh gắn với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn quyết chiến với giặc Minh, thoát khỏi sự vây ráp của quân thù và sau khi lên ngôi vua Lê đặt tên cho vùng đất nơi đây hãy còn lưu giữ đến tận hôm nay với sự thành kính, cảm phục, biết ơn vị Chủ tướng Lam Sơn và đoàn quân nghĩa.

Đặc biệt, nhiều địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh xâm lược, đó là: sự tích núi Pù Rinh- nơi đỉnh cao Bình Định Vương quan sát địch và nghị bàn việc quân cơ với các tướng lĩnh cùng nghĩa quân, Chùa Mèo, thác Ma Hao, bản Năng Cát (xã Trí Nang); Làng Húng - nơi Bình Định Vương phát hiện ra loại rau có hương thơm lạ và đặt tên cho làng là làng Húng; Làng Hiên gắn với sự tích Chủ tướng Lam Sơn một lần đi qua làng được dân bản nấu cho ăn món rau hiên với lươn, nhưng ông chỉ ăn rau mà không đụng đến thịt lươn để nhường quân sĩ ốm yếu, cảm động trước lòng yêu thương nghĩa binh của Lê Lợi, sau này làng được mang tên là làng Hiên; Suối Vớ (xã Giao An) nơi Nguyễn Trãi lấy mật viết lên lá cây, để kiến đục thủng, thay cho lời của Trời và thần linh: "Lê Lợi vi Vương, Lê Lai vi Tướng, Nguyễn Trãi vi Thần"; Suối Láu, nơi Lê Lợi đổ bát rượu xuống suối "hòa nước sông chén rượu ngọt ngào", thề cùng các tướng sĩ đồng cam, cộng khổ chống giặc nhà Minh khôi phục giang sơn...

Trong những buổi đầu dấy binh muôn vàn gian khó và hiểm nguy, truyền thuyết được bà con các dân tộc trên đất Lang Chánh mãi còn ghi nhớ truyền thuyết Lê Lai liều mình cứu chúa: Hay tin Lê Lợi dấy nghĩa, quân Minh tập trung lực lượng đàn áp nghĩa quân ngay từ những ngày đầu thành lập. Trước tình thế cấp bách, Lê Lợi phải rời quân về Mường Một (một mường lớn của châu Lang Chánh, nay là xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân). Quân địch vẫn vây ráp và lùng sục ráo riết, Lê Lợi rút sâu vào vùng núi Chí Linh. Bằng kế cho Lê Lai cải trang thành “Chúa Lam Sơn” tiến đánh quân Minh giúp Lê Lợi và nghĩa quân thoát cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”.

Với sự tích Chùa Mèo, người dân nơi đây truyền kể: Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, một lần Chủ tướng Lam Sơn cùng nghĩa quân lánh nạn trong chùa trước sự truy lùng gắt gao của giặc Minh, thấy trong chùa chỉ còn lại con mèo, ông đã sai nghĩa quân đem theo con mèo cùng đi lánh nạn. Lòng thương cảm và trách nhiệm của Chủ tướng ngay cả đối với con vật nuôi bé nhỏ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc, quyết giành lại non sông, cởi ách xâm lăng của giặc Minh làm nức lòng quân sĩ xông lên diệt giặc. Sau khi giành thắng lợi, ngôi chùa đã được Lê Lợi cho tu sửa và đổi tên thành chùa Mèo để ghi nhớ sự kiện đó. Ngôi chùa hiện tọa lạc tại làng Chiềng Ban, xã Quang Hiến.

Trên đất Lang Chánh, mỗi ngọn núi dòng sông, bản làng đều gắn với những truyền thuyết, sự tích về cuộc chiến đấu, anh dũng hy sinh của Bình Định Vương và quân sỹ Lam Sơn. Thác Ma Hao gắn với truyền thuyết về nghĩa quân và Lê Lợi. Trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn lui về núi Chí Linh (Pù Rinh), để củng cố lực lượng, Lê Lợi và quân lính của ông bị giặc bủa vây, truy sát ráo riết. Quanh núi Chí Linh có tầng tầng, lớp lớp núi đồi, cây cối um tùm, suối sâu vách đá cheo leo vô cùng hiểm trở. Nghĩa quân đã cắt cử người canh gác liên tục, nếu có giặc đến thì kịp thời cấp báo cho chủ tướng đối phó. Từ đỉnh núi này có thể quan sát xung quanh, đã bao lần nhờ có đỉnh núi này mà nghĩa quân được an toàn. Nhiều lần nghĩa quân đã phải mở đường máu với quân giặc để bảo vệ Chủ tướng Lê Lợi.

Một lần, Lê Lợi cùng quân lính mang theo một con chó chạy từ đỉnh núi Pù Rinh xuống, người và vật đã kiệt sức thì gặp một thác cao chảy xiết. Quân giặc lại đuổi sát phía sau, nên Lê Lợi và quân lính phải mạo hiểm đầm mình vượt thác qua bờ bên kia. Còn con chó do sức đã kiệt, suối lại rộng không thể theo được chỉ đứng ngáp. Khi quân giặc đuổi đến, con chó liền quay lại cắn xé đàn chó của giặc rồi nhảy xuống dòng nước xoáy. Quân giặc rút đi, Lê Lợi sai quân lính tìm xác con chó quý và truyền lệnh chôn cất nó tử tế. Từ đó, thác có tên theo tiếng người Thái là Ma Háo (chó ngáp) lâu dần người dân đọc chệch đi là Ma Hao.

 

Danh thắng thác Ma Hao (Lang Chánh) gắn với truyền thuyết về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn. (Ảnh: TL)

Cách không xa thác Ma Hao, bản Năng Cát cũng lưu giữ truyền thuyết về Lê Lợi và các nghĩa binh Lam Sơn. Trong lần Vua Lê và quân lính bị giặc truy đuổi, đến tối mới tìm được nơi dựng trại, nấu cơm. Đường chật, người đông, nấu được nồi cơm thật vất vả. Ngay đội quân bảo vệ cho Lê Lợi cũng tất bật, vội vàng. Họ mang nồi niêu ra suối để vo gạo, múc nước. Vì kéo nhau xuống suối quá đông, nước cạn, làm vẩn đục dòng nước, đến nỗi khi đem nồi cơm dâng lên Chủ tướng có nhiều cát lẫn với cơm. Thấu hiểu và cùng chia sẻ với nỗi gian truân, khó khăn của quân sĩ, Lê Lợi vừa nhai cơm vừa cả cười, liền đặt cho vùng đất này là Năng Cát để ghi dấu những lúc gian lao của những ngày đầu khởi nghĩa. Địa danh này nay là bản Năng Cát, thuộc xã Trí Nang.

Sự tích Nguồn gốc họ Lê thờ Kỳ đà, kể rằng: Một lần bị giặc vây, Lê Lợi ém mình trong một gốc cây to, đúng lúc quân Minh ập tới, bất ngờ có con kỳ đà chạy ra. Giặc Minh và lũ chó săn liền xông tới xé xác kỳ đà. Chúng còn dùng giáo đâm vào bụi cây, xuyên vào đùi Lê Lợi, ông nén đau, bình tĩnh lau vết máu trên mũi giáo khiến giặc Minh không phát hiện được. Khi giặc rút đi Lê Lợi được người dân nơi đây hái cây thuốc cỏ băng bó vết thương, chỉ đường cho Chủ tướng thoát khỏi vòng vây của giặc. Cảm ơn dân bản, Lê Lợi đặt tên cho nơi này là bản Tiên - Tiên thánh giúp đỡ. Bản Tiên đến nay vẫn mang tên cũ, thuộc xã Lâm Phú. Ghi nhớ sự việc trên, dòng tộc họ Lê nơi đây đã suy tôn kỳ đà cứu mạng vua Lê là thần và có tục thờ tri ân linh vật đã giúp vua thoát nạn.

Truyền thuyết, cổ tích giai thoại, truyện kể dân gian về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn buổi đầu khởi nghiệp trên đất Lang Chánh rất phong phú, đa dạng, mang đậm hơi thở của cuộc sống thời đại. Truyền thuyết, cổ tích giai thoại về sự nghiệp bình Ngô trên đất Lang Chánh đều bắt nguồn từ cốt lõi hiện thực lịch sử của cuộc khởi nghĩa gặp muôn vàn gian khó. Những năm đầu dựng cờ, nghĩa quân chỉ thắng được vài trận nhỏ, còn lại hoàn toàn thất bại khi bị quân Minh truy quét, nhưng được sự cưu mang, giúp đỡ của đồng bào, đồng chí nơi đây, nghĩa quân đã bền gan, quyết chí quét sạch giặc Minh xâm lược, giành độc lập dân tộc. Các câu chuyện đề cập những sự kiện có thật với những con người cụ thể và tên đất, tên làng, ngọn núi, dòng sông, con suối, cánh rừng... gắn liền với mỗi bản mường, vùng đất thuộc huyện Lang Chánh. Điều đó không chỉ tôn vinh sự nghiệp bình Ngô, cứu nước, cứu dân vĩ đại của người anh hùng Lê Lợi và nghĩa sỹ Lam Sơn, mà còn khẳng định vị thế và sự đóng góp to lớn của con người và miền đất nơi đây với sự nghiệp chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc hồi thế kỷ XV.

Phù Rinh núi thiêng, vai trò và sự đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc huyện Lang Chánh những năm đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã trở thành mốc son chói lọi, in đậm và ghi tạc trong lòng người, tạo sức sống bền lâu suốt nhiều thế hệ, mãi sáng ngời trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc như thi hào Nguyễn Trãi đã từng ngợi ca: ...vua ta dựng nghiệp tự núi này /Công cao đức cả của vua ta sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đời.

2
1
...
06/03/2020 21:03:49

Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm Ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương (anh lớn của ông tên Học, anh thứ là Trư). Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.

Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:

Đất hiểm trở từ nay không còn,

Núi sông đã vào chung một bản đồ.

Đề thơ khắc vào núi đá

Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.

Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.

Lê Lợi trong 5 năm làm vua, có những công lao to lớn. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp. "

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư