Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài tỏ lòng

3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.242
0
0
Tô Hương Liên
01/08/2017 02:34:25
Soạn bài tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
(Thuật hoài)
I. Gợi ý trả lời câu hỏi.
Câu 1. Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch. Có gì đáng lưu ý về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở đây mang tư thế, dáng vóc như thế nào?
Hai chữ “múa giáo” chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của hai từ “hoành sóc” trong câu thơ nguyên tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” (có bản là “cáp kỉ thu”). “Hoành sóc” là tư thế cầm ngang ngọn giáo của con người trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với tư thế hiên ngang, lẫm liệt, mang tầm vóc của vũ trụ. Chính không gian rộng lớn (giang sơn) và thời gian trải dài dường như vô tận (kháp kỉ thu) đã làm cho hình ảnh con người trở nên kì vĩ, hào hùng lạ thường. Ngọn trường giáo dường như được đo bằng chiều dài của sông núi. Cầm ngang ngọn giáo là tư thế con người luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, so với phần dịch “múa giáo” thì hình ảnh đó mạnh mẽ, hào hùng hơn nhiều.
Câu 2. Anh chị cảm nhận như thế nào về sức mạnh của quân dân nhà Trần qua câu thơ “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”?
Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu. Ngoài cách hiểu trong phần dịch của SGK, câu thơ này còn được hiểu là “Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu”. Cách hiểu nào cũng nêu bật lên sức mạnh và sự hào hùng của binh lính đời nhà Trần. Ở đây chúng ta hiểu theo cách SGK đã đưa ra. Hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” là sự cảm nhận chủ quan của tác giả trước hình ảnh khách quan là đội quân nhà Trần, chính vì thế mà câu thơ mang vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hiện thực. Nghệ thuật so sánh (ba quân như hổ báo) đã cụ thể hóa sức mạnh của “ba quân” vừa tạo cho câu thơ một âm hưởng hào hùng mang “hào khí Đông A”, thể hiện tinh thần của thời đại.
Câu 3. “Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào dưới dây?
- Thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo: lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm).
- Chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước.
- Cả hai nghĩa trên.
Nam nhi thời phong kiến coi việc lập công (để lại sự nghiệp) và lập danh (để lại tiếng thơm) là nhiệm vụ quan trọng của cuộc đời. Đây là chí làm trai theo quan niệm Nho giáo. Lập công danh là món nợ của kẻ làm trai. Chừng nào chưa lập được công danh, chưa tạo được tiếng thơm là chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Đặt trong xã hội phong kiên thời loạn, đất nước luôn bị họa ngoại xâm, chí làm trai có tác dụng mãnh mẽ, cổ vũ con người từ bỏ lối sống cá nhân, ích kỉ để sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp “bình quốc an dân”, do đó nó man giá trị tích cực.
Câu 4. Ý nghĩa của “nỗi thẹn” trong câu thơ cuối “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.
Phạm Ngũ Lão thẹn vì không có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu – Gia Cát Lượng xưa để giúp dân, giúp nước. Chúng ta nên nhớ rằng Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài, đã đóng góp rất nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, lại là người thông thuộc kinh sử, có thể coi là “văn võ song toàn”, ông được làm đến chức Điện súy, được phong tước Quan nội hầu. Thế nhưng ông vẫn chưa hài lòng với những gì mình làm được. Điều này thể hiện tâm của kẻ sĩ, luôn muốn dốc hết lòng để giúp dân, giúp nước. Nỗi thẹn ấy thể hiện nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn khi ví mình với những bậc danh sĩ xưa. Nguyễn Khuyến sau này trong bài Thu vịnh cũng có nỗi thẹn “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (ông Đào – tức Đào Tiềm, một danh sĩ đời Tấn). Nỗi thẹn ở đây không làm con người thấp bé đi, trái lại nó nâng cao nhân cách đẹp đẽ của con người.
Câu 5. Vẻ đẹp của hình ảnh trang nam nhi đời Trần và ý nghĩa của bài thơ đối với thể hệ trẻ hôm nay.
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần. Hình ảnh con người được đặt ngang tầm vóc của vũ trũ, mang vẻ lẫm liệt, hào hùng. Họ là những con người sống hết kích thước cuộc sống, luôn hết mình vì dân, vì nước. Mỗi cá nhân đều ý thức tạo nên sức mạnh tập thể, hết mình cống hiến. Chính vì vậy đã tạo nên sức mạnh của thời đại, tạo nên một nhà Trần “bách chiến bách thắng” và hào khí Đông A mà sử sách mãi lưu danh.
Thế hệ trẻ hôm nay học được ở bài thơ cách sống và cách cống hiến của người đời xưa. Con người đời xưa sống hết kích thước cuộc sống cho dân cho nước. Nam nhi thời xưa luôn canh cánh trong lòng ước mơ cống hiến để đem lại cuộc sống an vui, thái bình cho nhân dân. Lí tưởng sống cao đẹp của họ là điều mà thế hệ trẻ hôm nay nên vươn tới.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Phạm Văn Bắc
05/08/2017 01:13:21
TỎ LÒNG
(Thuật hoài)
PHẠM NGŨ LÃO
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hào khí Đông A
Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông).
Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.
Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A : Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao, Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,…
2. Tỏ lòng là một bài thơ ngắn nh­ưng lại mang đậm dấu ấn của cả một thời (dấu ấn về âm hư­ởng của hào khí Đông A). Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình t­ượng ngư­ời anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tư­ởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và quyết thắng.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múa giáo" chư­a thể hiện đư­ợc hết ý nghĩa của hai từ "hoành sóc". "Hoành sóc" là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hư­ởng, từ "hoành sóc" đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.
Trong câu thơ đầu này, con ngư­ời xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngư­u thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con ngư­ời cầm cây tr­ường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại đư­ợc đặt trong một không gian, thời gian như­ thế thì thật là kì vĩ. Con ng­ười hiên ngang ấy mang tầm vóc của con ng­ười vũ trụ, non sông.
2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.
3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món "nợ công danh" mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý "ch­ưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước". Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh đư­ợc coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nư­ớc. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn "thẹn" vì mình ch­a đ­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nư­ớc giúp đời.
4. Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của ngư­ời anh hùng. Phạm Ngũ Lão "thẹn" vì chư­a có đ­ược tài năng m­ưu l­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng (Khổng Minh - đời Hán) để giúp dân cứu nư­ớc, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nư­ớc còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con ngư­ời có trách nhiệm với đất n­ước, non sông.


5. Ngư­ời xư­a nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách". Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ "Tỏ lòng". Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm h­ưởng anh hùng ca của thời đại do những con ngư­ời ấy tạo nên và cũng chính âm h­ưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm th­ường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu n­ước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cư­ờng của những con ng­ười ấy sẽ vẫn mãi là lí t­ưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.
0
0
Nguyễn Thị Sen
05/04/2018 17:08:11

Soạn bài: Tỏ lòng (Thuật hoài)

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

   Hai từ “Hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo được dịch là “múa giáo” thật chưa sát nghĩa và chưa bộc lộ hết sự hào hùng về con người, không gian trong câu “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Trong câu thơ này:

       + Thời gian: kháp kỉ thu

       + Không gian: giang sơn (đất nước)

       + Con người: một tráng sĩ đang cầm ngang ngọn giáo

   Ở đây, tác giả khác họa hình tượng người tráng sĩ dưới thời Trần, với ngọn giáo cầm ngang, vững trãi. Không gian trải dài, mênh mông vô tận thời gian mênh mông, trả dài từ năm này qua năm khác. Sự kết hợp giữa không gian rộng lớn, thời gian “kỉ thu” mênh môn vô tận ấy khiến hình ảnh người tráng sĩ hiện lên với tầm vóc vũ trụ với ý chí bảo vệ đất nước - vẻ đẹp được bộc lộ cả bên trong lẫn bên ngoài. Còn hai từ “múa giáo” chỉ thể hiện được một phần vẻ đẹp bên ngoài: khả năng chiến đấu.

Câu 2 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Câu thơ “Tam quân tì hổ thiết thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách

    Cách đầu tiên: thể hiện sức mạnh cùng ý chí chiến đấu của quân đội nhà Trần hùng mạnh như loài hổ báo – những động vật mạnh nhất của rừng xanh và sức mạnh ấy có thể “nuốt trôi trâu”.

    Cách hiểu thứ hai: sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân đội nhà Trần rất lớn, sức mạnh ấy có thể át cả sao Ngưu trên bầu trời – sức mạnh của vũ trụ rộng lớn, có thể thay đổi cả giang san đất nước.

Câu 3 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

    Trong thời kì này, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến quan niệm, lối sống của con người, đặc biệt là đấng nam nhi. Sinh ra trong đời, đấng quân tử luôn mang theo mình một món “nợ tang bồng”. Món nợ ấy thể hiện chí làm trai theo tinh thần của Nho giáo: lập công (để lại sự nghiêp) và lập danh (để lại tiếng thơm). Và ở đây, từ “nợ” còn là nỗi trăn trở của tác giả khi chưa hoàn thành nghĩa vụ với dân với nước.

Câu 4 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

    Phạm Ngũ Lão là bậc anh hùng của dân tộc, dưới thời Trần ông đã lập rất nhiều chiến công và là đấng quân tử đáng được người đời sau tôn trọng. Tuy nhiên, ông vẫn thấy “thẹn” bởi ông thấy những điều mình làm chưa được coi là lớn lao như Vũ Hầu đã từng giúp Lưu Bị. Nhưng nỗi “thẹn” ấy không làm cho hình tượng của Phạm Ngũ Lão nhỏ bé đi mà nó còn khiến người đời thêm hiểu về tấm lòng của ông– luôn muốn được làm những điều tốt đẹp, lớn lao dành cho nhân dân, đất nước

Câu 5 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

   - Nam nhi thời nhà Trần mang trong mình vẻ đẹp của ý chí chiến đấu bên trong và tầm vóc bên ngoài sánh ngang với vũ trụ, một hào khí được cả dân tộc noi gương – hào khí Đông A. Đó là vẻ đẹp của tinh thần chiến đấu, sự đoàn kết khi đất nước có giặc ngoại xâm đô hộ, là tinh thần luôn muốn đem sức lực của mình để cống hiến, bảo vệ quê hương.

   - Từ bài thơ này, ta hiểu thêm về một thời kì lịch sử của những vị anh hùng như Phạm Ngũ Lão – những con người dành cả đời mình để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Thế hệ trẻ hôm nay như được củng cố, động viên tinh thần bảo vệ tổ quốc. Để làm được điều đó, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần học tập và không ngừng học hỏi để giúp đất nước ngày càng phát triển hơn nữa.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo