Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thơ ca trong tù đã thể hiện rõ nhất tinh thần nào của người chiến sĩ cách mạng trong giai đoạn 1930 - 1945?

Thơ ca trong tù đã thể hiện rõ nhất tinh thần nào của người chiến sĩ cách mạng trong giai đoạn 1930-1945?
2 trả lời
Hỏi chi tiết
11
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Thơ ca trong tù, đặc biệt là những tác phẩm của Hồ Chí Minh, đã thể hiện rõ ràng tinh thần kiên cường, bất khuất, và lòng yêu nước mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng trong giai đoạn 1930-1945. Những bài thơ này không chỉ phản ánh nỗi đau và sự hy sinh của các chiến sĩ cách mạng khi bị giam cầm, mà còn thể hiện sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.

1. **Tinh thần kiên cường:** Dù phải đối diện với cảnh tù đày, người chiến sĩ cách mạng vẫn giữ vững lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng. Tinh thần không khuất phục trước đàn áp là một trong những mạch ngầm chảy trong các tác phẩm này.

2. **Lòng yêu nước:** Những bài thơ trong tù thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước, và khát vọng giải phóng dân tộc. Điều này cho thấy sức mạnh của tinh thần yêu nước, trở thành nguồn động lực lớn lao cho các hoạt động đấu tranh.

3. **Hi vọng và lạc quan:** Mặc dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, các tác giả vẫn thể hiện niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Họ tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng và sự trở lại tự do.

4. **Tình đồng chí và sự đoàn kết:** Thơ ca trong tù cũng phản ánh tinh thần đoàn kết giữa các chiến sĩ cách mạng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gắn bó và hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc chiến chống thực dân.

Tóm lại, thơ ca trong tù là minh chứng cho tinh thần chiến đấu kiên cường và tình yêu nước nồng nàn của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945, cung cấp sức mạnh để họ tiếp tục cuộc đấu tranh vì độc lập và tự do.
0
0
+5đ tặng
Ngay ở trong tù, với tinh thần “ Thân thể tại ngục trung, tinh thần tại ngục ngoại ” thơ văn trong tù vẫn đâm chồi nảy lộc, làm rạng rỡ thi đàn góp phần vào sự nghiệp cách mạng dân tộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Quang Cường
03/12 17:26:56
+4đ tặng
Mỗi nhà thơ bộc lộ niềm khao khát tự do của mình theo một cách, làm cho tiếng nói tự do trở nên phong phú Thế Lữ và Tố Hữu, bằng một số bài thơ, cũng đã góp những tiếng thơ khao khát tự do thật tha thiết.

Giữa cảnh đất nước nô lệ, Thế Lữ đã mượn hình ảnh con hổ, vị chúa tể của rừng xanh bị giam cầm trong vườn Bách thú để nói lên niềm khao khát tự do, nuối tiếc một quá khứ huy hoàng của mình trong bài Nhớ rừng.

Gậm một khối căm hờn trong củi sắt.

“Khối căm hờn” đó ngày một lớn dần, cùng với nỗi “nhớ rừng”, nhớ kỉ niệm vàng son mà giờ chỉ còn là trong kí ức thôi:

Nào đâu những đêm vàng bên hờ suối.

Dòng hồi tưởng của con hổ được thể hiện qua những kỉ niệm huy hoàng, kết hợp với các câu hỏi tu từ làm bài thơ trở nên sâu sắc hơn. Các từ "nào đâu", “đâu những” được Thế Lữ dùng như để chỉ những kỉ niệm đã tuột khỏi tay rồi, không gì lấy lại được.

Nỗi tiếc nuối đó càng lớn dần lên, nhớ thời xưa ta là chúa tể sơn lâm, nhớ những ngày mưa chuyển bốn phương, những “tiếng chim ca”, tiếng chân bước mạnh mẽ... Tất cả, tất cả như va đập trong trí nhớ của con hổ, và kiêu hãnh làm sao khi:

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật.

Vậy mà giờ đây, giữa lồng cũi, ta chỉ làm “trò mua vui cho thiên hạ”, ôi thời xa xưa!... Nỗi tiếc nuối, niềm khát khao tự do lại được hể gầm lên ở câu kết.

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Thời “oanh liệt” ấy chẳng còn đâu nữa, chỉ còn lại hổ với tiếng gầm thét đòi tự do thật quá mãnh liệt.

Hình ảnh con hổ bị tù đày ở đây phải chăng chính là hình tượng của cả một dân tộc sống trong cảnh tù đày, nô lệ. Tiếng gầm đó chính là niềm khát vọng đã thôi thúc mãnh liệt con người tìm đến tự do, tìm đến chính mình ở một thế giới bình đẳng, bác ái. Nhà thơ Thế Lữ đã thành công khi chọn lựa hình ảnh của một con hổ bị tù đày để nói lên khát vọng rực cháy muốn tìm tự do của cả một lớp người.

Bằng sự cảm nhận sâu sắc của một người tù phải chịu cảnh sống mất tự do, Tố Hữu đã viết trong bài Khi con tu hú:

Khi con tu hú gọi bầy.

Tiếng gọi vang dội từ bên kia song sắt, nhà thơ như cảm nhận được hè về trải dài trên những đồng cỏ, những ruộng lúa, và bầu trời tự do:

Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Ước gì nhà thơ được như những con chim kia, có thể tung cánh khắp bốn phương trời. Nhưng mọi sự chỉ đều là cảm nhận mà thôi, bốn bức tường, song sắt nhà tù đã ngăn cách nhà thơ với thế giới bên ngoài. Sự thiếu tự do, uất hận trào dâng:

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

“Hè ôi!”, câu thơ như than vãn về một sự việc không thể thực hiện được.

Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Hai câu thơ thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhà thơ, khi sống thiếu tự do con người có thể “chết uất thôi”. Tiêng chim tu, hú vẫn cứ kêu. Mở bài và kết bài đều là tiếng chim tu hú gọi hè dậy lên. Nhưng câu mở diễn ra với một không gian tự do, còn câu kết bài lại chính là tiếng gọi của tự do. Con chim vẫn cứ kêu lên, dù chỉ là khắc khoải, nhưng nó vẫn cố bám lấy một tia hi vọng, một tiếng “tự do”.

Nếu như nhà thơ Thế Lữ rất thành công khi mượn hình tượng con hổ thì Tố Hữu cũng gây được ấn tượng không nhỏ trong người đọc về hình ảnh con chim sẻ bé bỏng. Con chim sẻ không oai hùng, không đầy sức mạnh như vị chúa sơn lâm nhưng nó cũng cần có tự do. Và nó đã gục chết khi bị nhốt trong lồng. Ngày hôm qua khi chưa bị giam cầm “nó hãy còn bay nhảy” vậy mà “chỉ một ngày giam đã chết rồi”. Tác giả đã nói lên những niềm băn khoăn, day dứt của mình bằng những câu hỏi tu từ sâu sắc, ở khổ thơ đầu là lời băn khoán, thì ở khổ thứ hai là lời tự chất vấn.

Tôi đã tù, sao bắt nó tù?

Niềm băn khoăn dần chuyển thành lời day dứt của một kẻ tù mà không nhạy cảm với sự tù. Và cái chết của con chim nhỏ đã được giải thích ở khổ thơ sau: nó chết vì thiếu “mây gió”, không được “uống ánh trời”. Ở trong tù, con chim nhỏ dầu không phải kiếm ăn, người tù đã nhường cơm cho nó, nhưng sao vật chất có thể thay được tự do.

Bài thơ với những câu hỏi tu từ láy đi láy lại nhức nhối, đớn đau vì sự “vỡ nhẽ” dần dần cái giá trị vô giá của tự do. Bởi vì mất tự do thì cả con vật bé nhỏ cũng không sống nổi, huống hồ là con người. Người ta không chỉ cần tự do cho cuộc sống vật chất mà hơn thế nhiều, tự do cho cuộc sống tinh thần.

Thơ ca giai đoạn 1930 - 1945 này đã xuất hiện nhiều bài thơ nói lên khát vọng tự do đến cháy bỏng của con người Việt Nam. Niềm khát khao tự do ấy cũng được thế hiện khá thành công trong bài thơ Nhớ rừng và trong thơ Tố Hữu.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Đại học mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k