Lần thâu (1) gió mát, trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình (2) sang chơi. Râu hùm, hàm én, mày ngài, (3) Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền (4) hơn sức, lược thao gồm tài. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông. (5) Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn (6) nửa gành, non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều Tấm lòng nhi nữ (7) cũng xiêu anh hùng Thiếp danh đưa đến lầu hồng Hai bên cùng liếc hai lòng cũng ưa Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ, (8)
Phải người chăng gió vật vờ hay sao? (9) Bấy lâu nghe tiếng má đào (10), Mắt xanh (11) chẳng để ai vào có không? Một đời được mấy anh hùng, Bõ chi cá chậu chim lồng (12) mà chơi!”
Nàng rằng: “Người dạy quá lời, Thân này còn dám xem ai làm thường! Chút riêng chọn đá thử vàng (13), Biết đâu mà gởi can trường vào đâu? Còn như vào trước ra sau (14),
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!” Từ rằng: “Lời nói hữu tình, Khiến lòng lại nhớ câu Bình Nguyên (15) quân. Lại đây xem lại cho gần Phỏng tin được một vài phần hay không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong, Tấn Dương (16) được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!” Nghe lời, vừa ý gật đầu
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người? Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung (17) nghìn tứ (18) cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu, Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân.
Chú thích:
*Tên đoạn trích: Do GS.TS Trần Đình Sử đặt
Đoạn trích: Đây là đoạn trích kể lại sự việc: Khi bị bán vào lầu xanh lần thứ hai thì Kiều đã hoàn toàn bất lực, buông xuôi, vô vọng. Chính vào lúc đó, Từ Hải xuất hiện như là một giấc mơ làm đổi thay đời nàng.
(1) Lần thâu: Ý nói hết ngày dài lại đêm thâu (Kiều đã ở lâu, trải nhiều ngày gió mát trăng thanh) (2) Biên đình: Nơi biên thùy, ý nói nơi xa xôi (3) Râu hùm, hàm én, mày ngài: Do các chữ yến hạm, hồ đầu, ngọa tàm my: hàm rộng như hàm chim én, đầu to như đầu hổ, lông mày to đậm cong như con tằm, là tướng người anh hùng (4) Côn: Môn võ đánh gậy; Quyền: Môn võ đánh tay. Côn quyền: Chỉ nghề đánh võ (5) Việt Đông: chỉ miền tỉnh Quảng Đông ngày nay (6) Thơ Hoàng Sào (một lãnh tự nông dân khởi nghĩa đời Đường): Bán kiên cung kiếm băng thiên tủng, nhất trạo giang sơn tận địa duy (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gấm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông). Đàn: một loại cung bắn đạn tròn đi rất xa (7) Nhi nữ: Người con gái (8) Tâm phúc tương cờ: Lấy bụng dạ cùng hứa hẹn với nhau, ý nói muốn thực dụng với nhau (9) chăng gió vật vờ: Lăng nhăng, không nhất quyết một điều gì cả (10) Má đào: Người con gái xinh đẹp (11) Mắt xanh: Ý nói cả câu Thúy Kiều chưa có ai đáng để mắt đến phải không? (12) Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường cam chịu sống trong vòng giam hãm. Ý cả câu: Đời phần nhiều là hạng tầm thường, thì bõ chi mà chơi với họ (13) Chọn đá thử vàng: Ý nói chọn người tri kỉ, chọn người tốt cũng như lấy đá thử vàng xem tốt hay xấu (14) Vào trước ra sau: Ý nói đón người lối cửa trước, tiễn người lối cửa sau. Ý cả hai câu: Còn như việc đưa đón khách làng chơi, việc đó nàng không có quyền tự kén chọn (15) Bình Nguyên quân: Tên Triệu Thắng, con Vũ Linh Vương nước Triều đời Chiến quốc hiệu Bình Nguyên quân, là người hiền thích tân khách, tính hào hiệp, trong nhà có đến mấy nghìn khách ăn. Ông làm tể tưởng cho Huệ Văn vương và Hiếu Thành vương, ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong đất ở Đông Vũ thành (Sơ kỳ). Thơ Cao Thích (thời Đường). Vị trí can đảm hưởng thủy thì linh nhân khước ức Nguyên quân (Chẳng biết gan mặt hướng vào ai cho phải, khiến người lại nhớ Bình Nguyên quân). Đây nhân câu trên, Thúy Kiều nói: Biết đầu mà gói can trường vào đâu, nên Từ Hải lấy cầu Bình Nguyên quân mà đáp lại, cũng là có ý tự vì mình. (16) Tấn Dương: tên đất, nay thuộc huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đường Cao Tổ từ đất Tấn Dương dấy binh đánh nhà Tùy dựng nghiệp đế. Ý cả câu: Thúy Kiều tin rằng có phen Từ Hải làm nên được nghiệp đế vương như Đường cao tổ. (17) Muôn chung: Do chữ vạn chung. Chung là đồ dùng đong lường thời xưa ở Trung Quốc, đựng được 6 hộc 4 đầu. Các quan thời xưa ăn lương bằng thóc. Ăn lương đến muôn chung, tức là hàng quan khanh tướng. (18) Nghìn tứ: Do chữ thiên tứ: nghìn cỗ xe đóng bốn ngựa, Có nghìn cỗ xe đóng bốn ngựa, tức là nói cảnh nhà quan quyền giàu sang
Câu 1. Xác định ngôi kể, hình thức lời loại trong trong đoạn trích? Câu 2. Liệt kê các từ ngữ tác giả Nguyễn Du sử dụng để chỉ nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này. Câu 3. Dấu hiệu nào trong văn bản giúp bạn hiểu văn bản trên là truyện Nôm bác học?
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Câu 1. Xác định ngôi kể, hình thức lời loại trong đoạn trích?
Trong đoạn trích "Kiều gặp Từ Hải", ngôi kể là ngôi thứ ba, được thể hiện qua cách mô tả hành động và cảm xúc của nhân vật. Câu chuyện được người kể dẫn dắt, sử dụng cách kể trực tiếp, không có sự tham gia của nhân vật trong câu chuyện.
Hình thức lời loại: Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng lời thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Các lời đối thoại này giúp thể hiện sự tương tác giữa hai nhân vật và làm rõ tính cách, tâm lý của từng người. Bên cạnh đó, các câu tường thuật cũng được sử dụng để mô tả ngoại hình và hành động của nhân vật, đặc biệt là Từ Hải.
Câu 2. Liệt kê các từ ngữ tác giả Nguyễn Du sử dụng để chỉ nhân vật Từ Hải trong văn bản. Từ đó, nêu nhận xét của em về thái độ của tác giả dành cho nhân vật này.
Các từ ngữ tác giả Nguyễn Du sử dụng để chỉ nhân vật Từ Hải trong văn bản:
Râu hùm, hàm én, mày ngài: Mô tả ngoại hình của Từ Hải, với hình ảnh một người có dáng vẻ mạnh mẽ, khí khái, giống như các anh hùng, một nhân vật anh tuấn.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao: Còn mô tả về thân hình vạm vỡ, khỏe mạnh, tượng trưng cho sức mạnh và sự kiên cường của Từ Hải.
Đội trời đạp đất: Hình ảnh này thể hiện sự kiêu hãnh và quyền uy của Từ Hải, một nhân vật có tầm vóc lớn lao, có thể "đội trời" và "đạp đất", tựa như một vị anh hùng.
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài: Chỉ rõ rằng Từ Hải không chỉ có thể lực mà còn có trí tuệ và tài năng chiến đấu.
Họ Từ, tên Hải: Một cách giới thiệu tên gọi bình dị nhưng thể hiện rõ ràng danh tính của nhân vật.
Nhận xét về thái độ của tác giả dành cho nhân vật Từ Hải: Nguyễn Du thể hiện thái độ tôn vinh và ca ngợi đối với nhân vật Từ Hải. Qua những lời miêu tả đầy ấn tượng, tác giả đã xây dựng hình ảnh Từ Hải như một vị anh hùng, mạnh mẽ, có tài, có đức và một phẩm chất kiên cường, dũng mãnh. Những hình ảnh như "râu hùm", "mày ngài", "vai năm tấc rộng, thân mười thước cao" tạo nên một khí phách vĩ đại, một người anh hùng đầy sức sống và quyết đoán. Đây là hình mẫu lý tưởng của một người đàn ông, có thể đem lại sự bảo vệ và giải cứu cho Thúy Kiều trong lúc nàng đang ở trong hoàn cảnh bi đát.
Câu 3. Dấu hiệu nào trong văn bản giúp bạn hiểu văn bản trên là truyện Nôm bác học?
Văn bản "Kiều gặp Từ Hải" có những dấu hiệu cho thấy đây là truyện Nôm bác học:
Ngôn ngữ bác học: Truyện sử dụng nhiều từ Hán Việt, thể hiện sự học vấn và sự kết hợp giữa văn hóa dân gian và nền văn học bác học. Các từ ngữ như "tâm phúc", "lược thao", "mắt xanh", "bình nguyên quân", "tấn dương" đều là những từ Hán Việt mang đậm dấu ấn của thể loại Nôm bác học.
Thể thơ lục bát: Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của văn học Việt Nam, thể hiện sự uyển chuyển trong ngôn từ, dễ đi vào lòng người. Thể thơ này được coi là đặc trưng của văn học Nôm.
Cốt truyện phong phú và đa dạng: Câu chuyện của Nguyễn Du không chỉ đơn thuần là một câu chuyện tình yêu mà còn mang đậm tính chất triết lý, nhân văn, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc. Từ cách miêu tả nhân vật Từ Hải cho đến các cuộc đối thoại đầy ẩn ý giữa Thúy Kiều và Từ Hải đều thể hiện một trình độ cao trong nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện.
Tất cả những yếu tố trên chứng tỏ rằng "Kiều gặp Từ Hải" là một phần của truyện Nôm bác học, là tác phẩm của Nguyễn Du mang đậm phong cách văn học cổ điển, kết hợp giữa nền văn học dân gian và văn hóa học thuật.
Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời
(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi. Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
chấm điểm giúp ngôi 3 kể lại, thoại khách biên điình vai năm tấc roonhj thân mười thước cao một đấng anh hào đội trời đạp đất anh hùng => coi trọng ngời ca ........