Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài Ông Đồ

5 trả lời
Hỏi chi tiết
768
0
0
Nguyễn Thanh Thảo
01/08/2017 02:35:39
Soạn bài ông Đồ - Vũ Đình Liêm
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. Bốn khổ thơ đầu khắc họa hình ảnh ông đồ trong cùng mốc thời gian đó là mùa xuân, gắn liền với “giấy đỏ”, “mực tàu” nhưng đã ở hai cảnh ngộ khác nhau.
“Mỗi năm hoa đào nở” – đó là dấu hiệu của mùa xuân về. Với “mực tàu giấy đỏ”, những câu đối Tết… ông đồ là hình ảnh quen thuộc, không thể thiếu trong bức tranh toàn cảnh mùa xuân, khi Nho học còn thịnh hành: “Mỗi năm … lại thấy”. Không gian xung quanh gợi vẻ ấm cúng thiên liêng, đó là không gian của hoa đào nở tươi mới, của mực tàu sóng sánh, của giấy hồng điều giản dị… Vài ba nét phác họa đơn sơ, chân dung ông đồ già hiện lên với tất cả vẻ đẹp thanh tao cao khiết…
Ông đồ như hòa vào, góp vào sắc màu rực rỡ, không khí rộng ràng của phố phường đón Tết. Mực tàu, giấy đỏ của ông như hòa vào màu thắm của hoa đào nở, sự có mặt của ông đã thu hút bao nhiêu người. Đành rằng, với một kẻ sĩ, bán chữ - thứ chử chỉ để răn dạy, ngâm vịnh và cho nhau, là cực chẳng đã. Song chữ ông còn được trọng, tài ông còn được khen, ông như một phần thiêng liên của cuộc sống, một phần tôn vinh của mọi người. Bao nhiêu người tìm đến ông thuê viết chữ, hơn thế, để thưởng thức sự tài hoa, để ái mộ tâm lực của ông. Vậy cũng đủ an ủi ông rồi. Bởi đó là cái tình của người đời. Vả lại “Bày mực tàu giấy đỏ” là ông đã chấp nhận thành kẻ bán và chữ là hàng hóa. Đã là hàng hóa thì cần có người mua đông.

Nếu 2 khổ đầu khắc họa hình ảnh ông đồ trong thời kỳ đắc ý, thời kỳ mà Tết đến, mọi người đều mua câu đối đỏ hay vài chữ nho trên giấy hồng điều để dán lên vách, cột nhà trang hoàng nhà cửa ngày Tết và mong lời chúc Tết lành, thì hai khổ tiếp là hình ảnh ông đồ đã ở kì mạt vận.
Vẫn là ông đồ ngày xưa, vẫn là giẩy đỏ, là nghiên, là mực nhưng sao không gian đó buồn thảm và trống vắng vậy. Còn đâu giấy thắm mực đượm mà chỉ là:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Giẫy mực bẽ bang trong tàn phai tủi sầu. Một loạt từ ngữ cùng trường nghĩa gợi vẻ đẹp tàn lụi buồn bả: buồn, không thắm, đọng, sầu.
Nếu trươc là “Bao nhiêu người thuê viết” thì nay “Người thuê viết nay đâu”. Ông đồ bị đẩy ra ngoài lề xã hội, rơi vào quên lãng. Bởi một thị hiếu thẩm mĩ đã chết một phong tục văn hóa vị bỏ quên, bởi một thời đại đã đổi thay, bởi người đời vô tình vô cảm. Khổ 4 vẽ ra một sự đối lập giữa cái tĩnh và cái động:
Ông đồ - người qua đường
Giấy – lá rơi, mua bay
Tạo nên dáng vẻ bó gối bất động của ông đồ. Ông đồ ngồi đấy, như một pho tượng, bên trang giấy bị phủ lá vàng. Mắt buồn rầu, ngơ ngát nhìn qua màn mưa bụi phủ mờ dòng người qua đường… Đoạn thơ lời ít mà cảnh hiện ra như thước phim nổi đặc tả giàu sức gợi. Nơi đất trời là mưa bụi, lá vàng rơi, nơi xã hội là người qua đường, còn nơi ông đô là bút sầu mực tủi, giấy không thắm. Tất thảy đều vô tình, lạnh lùng trước những giá trị coi là xưa cũ.
Sự đối lập hai cảnh ngộ của ông đồ đã gợi lên bóng dáng tiêu điều của một nền học thuật, của một truyền thống văn hóa khi đối chạm với nền văn hóa hiện đại tư sản phương Tây.
Chính sự tương phản giữa hai cảnh tượng đó gợi cho người đọc nỗi ngậm ngùi xót thương cho tình cảnh ông đồ:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình.
Câu 2. Cảm xúc của tác giả là sự kết hợp giữa lòng thương người và tình hoài cổ. Cảm xúc đố được biểu lộ kín đáo qua những hình ảnh miêu tả, có khi lại được tác giả phát biểu trực tiếp, nhưng chủ yếu được toát ra từ giọng điệu ngậm ngùi của bài thơ. Cụ thể, đó là những cảm xúc:
- Ngưỡng mộ nét tài hoa của một thế hệ nhà Nho, trân trọng nét đẹp văn hóa một thời của dân tộc.
- Cảm thương, xót xa trước sự tàn tạ của thân phận con người.
- Luyến tiếc, nhớ nhung cảnh cũ người xưa nay đã vắng bóng.
Đây là những trạng tháu của cảm xúc đậm chất nhân văn, đánh động trong ta lòng xót thương số phận hẩm hiu của con người, nỗi buồn hoài cổ, nuối tiếc một nét đẹp của đời sống tinh thần dân tộc một thời, chạm đến một vấn đề có tính lịch sử, văn hóa: bi kịch của sự gặp gỡ Đông – Tây.
Câu 3. Cái hay của bài thơ nằm ở mặt nội dung và nghệ thuật, cũng như sự thống nhất hai mặt đó.
a. Về mặt nội dung, thi phẩm đề cập đến vấn đề phổ quát, có tính vĩnh cửu: số phận con người trong sự đổi thay của cuộc đời. Vấn đề đó lại gắn chặt với niềm tiếc thương một nét đẹp văn hóa dân tộc khiến cho cảm xúc trong bài càng sâu sắc, mở rộng.
Nội dung cảm xúc đó tìm đến một hình thức nghệ thuật tương ứng.
b. Về mặt nghệ thuật:
- Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng, khai thác có hiệu quả nghệ thuật cao. Thể thơ này có khả năng biểu hiện phong phú, có thể tự sự (kể chuyện), miêu tả, triết lí… như nhiều thể thơ khác, nhưng dường như thích hợp nhất với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Giọng chủ âm của bài thơ là trầm lắng, ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tâ tâm tư, cảm xúc nhà thơ.
- Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ, có nghệ thuật. Đó là kết cấu đầu cuối tương ứng và có hai cảnh tượng tương phản sâu sắc cùng miêu tả ông đồ ngồi viết thuê bên lề phố ngày Tết, cách kết cấu ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ, thể hiện tình cảm thất thế, tàn tạ đáng buồn của ông đồ một cách đầy ám ảnh.
- Ngôn ngữ bài thơ trong sáng, bình dị, đồng thời hàm súc, dư ba. Hình ảnh thơ cũng vậy, không có gì tân kỳ, “độc đáo” nhưng đầy gợi cảm. Chẳng hạn những câu Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu, hoặc Lá vàng rơi trên giấy – Ngoài trời mưa bụi bay, có thể coi là toàn bích, là y tại ngôn ngoại. Chính vì chắt lọc, tinh luyện mà bài thơ tuy chỉ có một hình thức bình dị khiêm nhường, đã có một sức truyền cảm nghệ thuật và sức sống mạnh mẽ, lâu dài.
Câu 4. Đây là những câu thơ hay nhất trong bài, thể hiện được tập trung nhất cảnh ngộ cũng như tâm trạng của ông đồ. Thơ tả cảnh mà chính là để bộc lộ tâm trạng.
Cảnh ngộ của ông đồ giờ đây đã khác trước, bị rơi vào quên lãng. Vì vậy, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng bút chẳng cầm đuộc, giầy chẳng được chạm. Vậy nên:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn tụi lan sang cả những vật vô tri vô giác. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy mà chẳng được đụng đến trở thành bẽ bang, màu đỏ của nó trở nên vô duyên, không thắm lên được, nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao sầu tủi của con người thấm vào trong những vật dụng ngày thường.
Đến khổ thơ sau, trên giầy đỏ ấy lại lác đác lá vàng.
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mừa bụi bay
Lá vàng rơi vốn đã gợi sự tàn ta, buồn bả, đây lại rơi trên tờ giấy dành viết câu đối của ông đồ và nằm tại đó vì giấy chưa được dùng đến. Ông đồ ế khách. Những chiếc lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng vẻ bất động bó gối của ông đồ ngồi nhìn mưa bụi bay. Chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ mà sao ảm đạm và lạnh lẽo vậy. Mưa của thiên nhiên hay trong chính cõi lòng ảo não của con người? Dường như đất trời cũng ảm đạm, buồn não ruột với cảnh ngộ ông đồ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Duy Mạnh
01/08/2017 06:27:52
Soạn bài: Ông đồ

Câu 1:Trong hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ viết chữ nho ngày tết là một hình ảnh đẹp. Đấy là cái thời đắc ý của ông.

Ông xuất hiện cùng hoa đào, với mực tàu giấy đỏ. Ông đem lại niềm vui cho mọi người khi viết câu đối tết. Bao nhiêu người nhờ đến ông. Bao nhiêu người tấm tắc khen ngợi ông. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp:

                                            Hoa tay thảo những nét
                                            Như phượng múa rồng bay

Nếu 2 khổ đầu khắc họa hình ảnh ông đồ trong thời kỳ đắc ý, thời kỳ mà Tết đến, mọi người đều mua câu đối đỏ hay vài chữ nho trên giấy hồng điều để dán lên vách, cột nhà trang hoàng nhà cửa ngày Tết và mong lời chúc Tết lành, thì hai khổ tiếp là hình ảnh ông đồ đã ở kì mạt vận.

Khổ thơ thứ ba và thứ tư vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy. Song là một không khí khác: Nhưng mỗi năm mỗi vắng. Không phải là vắng ngắt ngay lập tức, mà theo thời gian. Người cần đến ông cứ giảm dần. Và bây giờ thì hầu như không thấy họ:

Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Giấy mực bẽ bang trong tàn phai tủi sầu. Một loạt từ ngữ cùng trường nghĩa gợi vẻ đẹp tàn lụi buồn bả: buồn, không thắm, đọng, sầu.

Nếu trước là "Bao nhiêu người thuê viết" thì nay "Người thuê viết nay đâu". Ông đồ bị đẩy ra ngoài lề xã hội, rơi vào quên lãng. Bởi một thị hiếu thẩm mĩ đã chết một phong tục văn hóa vị bỏ quên, bởi một thời đại đã đổi thay, bởi người đời vô tình vô cảm. Khổ 4 vẽ ra một sự đối lập giữa cái tĩnh và cái động:

Ông đồ - người qua đường
Giấy – lá rơi, mua bay

Tạo nên dáng vẻ bó gối bất động của ông đồ. Ông đồ ngồi đấy, như một pho tượng, bên trang giấy bị phủ lá vàng. Mắt buồn rầu, ngơ ngát nhìn qua màn mưa bụi phủ mờ dòng người qua đường… Đoạn thơ lời ít mà cảnh hiện ra như thước phim nổi đặc tả giàu sức gợi. Nơi đất trời là mưa bụi, lá vàng rơi, nơi xã hội là người qua đường, còn nơi ông đô là bút sầu mực tủi, giấy không thắm. Tất thảy đều vô tình, lạnh lùng trước những giá trị coi là xưa cũ.

Sự đối lập hai cảnh ngộ của ông đồ đã gợi lên bóng dáng tiêu điều của một nền học thuật, của một truyền thống văn hóa khi đối chạm với nền văn hóa hiện đại tư sản phương Tây.

Chính sự tương phản giữa hai cảnh tượng đó gợi cho người đọc nỗi ngậm ngùi xót thương cho tình cảnh ông đồ:

Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình.

Câu 2: Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ một cách kín đáo. Tác giả đã mô tả hai cảnh đối lập và gợi niềm thương cảm ông đồ một cách gián tiếp. Chỉ đến phần cuối bài thơ, khi không còn thấy ông đồ, tác giả mới thốt lên :


Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ

Không chỉ cảm thương cho ông đồ, mà còn là cảm thương một lớp người đã trở thành quá khứ. Hơn thế nữa, sự hoài cổ còn là hoài niệm một vẻ đẹp văn hoá gắn với những giá trị tinh thần truyền thống. Chính vì thế mà bài thơ có sức lay động sâu xa.

Câu 3: Cái hay của bài thơ nằm ở mặt nội dung và nghệ thuật, cũng như sự thống nhất hai mặt đó.

a. Về mặt nội dung, thi phẩm đề cập đến vấn đề phổ quát, có tính vĩnh cửu: số phận con người trong sự đổi thay của cuộc đời. Vấn đề đó lại gắn chặt với niềm tiếc thương một nét đẹp văn hóa dân tộc khiến cho cảm xúc trong bài càng sâu sắc, mở rộng.

Nội dung cảm xúc đó tìm đến một hình thức nghệ thuật tương ứng.

b. Về mặt nghệ thuật:

- Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng thích hợp nhất với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Giọng chủ âm của bài thơ là trầm lắng, ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tâ tâm tư, cảm xúc nhà thơ.

- Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ, có nghệ thuật. Đó là kết cấu đầu cuối tương ứng và có hai cảnh tượng tương phản sâu sắc cùng miêu tả ông đồ ngồi viết thuê bên lề phố ngày Tết, cách kết cấu ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ, thể hiện tình cảm thất thế, tàn tạ đáng buồn của ông đồ một cách đầy ám ảnh.

- Ngôn ngữ bài thơ trong sáng, bình dị, đồng thời hàm súc, dư ba. Hình ảnh thơ cũng vậy, không có gì tân kỳ, "độc đáo" nhưng đầy gợi cảm.

Câu 4: Đây là những câu thơ hay nhất trong bài, thể hiện được tập trung nhất cảnh ngộ cũng như tâm trạng của ông đồ. Thơ tả cảnh mà chính là để bộc lộ tâm trạng.

Cảnh ngộ của ông đồ giờ đây đã khác trước, bị rơi vào quên lãng. Vì vậy, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng bút chẳng cầm đuộc, giầy chẳng được chạm. Vậy nên:

- Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu - Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay

Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá làm cho giấy, mực, những vật vô tri như cũng biết sầu buồn. Phải chăng, cái buồn của bản thân ông đồ cũng làm lây nhiễm sang cảnh vật ? Lá vàng, mưa bụi thật là buồn. Lá lại rơi trên giấy không thắm, mưa bụi lại làm cho cảnh vật như nhoè mờ. Ông đồ đã bị lãng quên, càng bị khuất lấp. Những câu thơ như thế đã làm cho bài thơ tạo được cho người đọc ấn tượng và ám ảnh sâu sắc.

0
0
Nguyễn Thị Sen
05/04/2018 17:08:08

Soạn bài: Ông đồ (Vũ Đình Liên)

Bố cục chia làm 3 phần:

- Phần 1 (khổ 1, 2): Hình ảnh ông đồ xưa.

- Phần 2 (khổ 3, 4): Hình ảnh ông đồ nay.

- Phần 3 (khổ 5): Nỗi hoài niệm của tác giả đối với ông đồ.

Câu 1:

- Trong 2 khổ thơ đầu: hình ảnh ông Đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp. Đấy là cái thời đắc ý của ông. Ông xuất hiện cùng với "hoa đào", "mực tàu", "giấy đỏ". Ông đem lại niềm vui cho nhiều người khi viết câu đối tết. Bao nhiêu người nhờ ông, tấm tắc khen ngợi ông.

- Khổ 3+4: vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy, nhưng không khí khác: vắng vẻ theo từng năm, đến giờ thì hâu như không còn "người thuê viết". Giấy cũng buồn, mực cũng sầu. Ông đồ vẫn có mặt, nhưng người ta không ai nhận ra ông, không chú ý vào ông nữa. Ông gần như bị lãng quên.

=> Sự khác nhau gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm ông đồ, ông đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời. Hai câu thơ: "lá vàng rơi trên giấy - ngoài giời mưa bụi bay" không chỉ là hai câu thơ tả cảnh mà còn là hai câu thơ tả tâm trạng, tả cảnh ngộ của ông đồ. Lá vàng rơi - biểu hiện của sự tàn úa, lại kèm mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.

Câu 2: Nỗi lòng của tác giả đối với ông đồ:

 	Năm nay đào lại nở,  	Không thấy ông đồ xưa. 

=> Kết cấu đầu cuối tương ứng => Cảnh thiên nhiên tươi đẹp còn ông đồ vắng bóng bị dòng đời, thời gian quên lãng.

 	Những người muôn năm cũ,    	Hồn ở đâu bây giờ? 

=> Câu hỏi tu từ => Nỗi niềm thương tiếc của tác giả đối với ông đồ, với giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Câu 3: Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật:

- Cách dựng cảnh tương phản: một bên tấp nập đông vui, một bên buồn bã hiu hắt. Một bên nét chữ như phượng múa rồng bay, bên kia giấy buồn không thắm, mực đọng nghiên sầu.

- Kết cấu đầu cuối tương ứng. Cũng là thời gian ngày áp tết, cũng là không gian mùa xuân, cũng vẫn là hoa đào nở. Nhưng hình ảnh ông đồ cứ nhạt nhòa dần. Cuối cùng thì không thấy hình ảnh ông đồ nữa.

- Bài thơ làm theo thể năm chữ. Lời lẽ dung dị, không có gì tân kì. Những hình ảnh thơ gợi cảm, sinh động và nhuốm đầy tâm trạng.

Câu 4:

Những câu thơ "giấy đỏ buồn không thắm - mực đọng trong nghiên sầu- lá vàng rơi trên giấy - ngoài giời mưa bụi bay" là những câu thơ tả cảnh ngụ tình. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa làm cho giấy - mực, những vật vô tri vô giác cũng biết sầu buồn. Nỗi cô đơn hắt hiu của con người khi bị bỏ quên. Cảnh vật tàn tạ, thiên nhiên cũng buồn theo nỗi buồn của con người.

0
0
Nguyễn Thị Nhài
05/04/2018 17:08:09

Soạn bài: Ông đồ

Bố cục:

   Chia làm 3 phần:

    - Phần 1 (hai khổ thơ đầu): hình ảnh ông đồ có tài có tâm được mọi người chú ý.

    - Phần 2 (hai khổ 3, 4): tâm trạng của ông đồ khi dần rơi vào quên lãng.

    - Phần 3 (khổ thơ cuối): Sự tiếc nuối, cảm thương cho lớp người xưa cũ của tác giả.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 10 sgk Ngữ Văn 8 tập 2) :

  - Hình ảnh ông đồ cho chữ ngày Tết trong hai khổ thơ đầu: hình ảnh đẹp mang ý nghĩa biểu trưng của những giá trị truyền thống.

    + Gắn với Tết và mùa xuân (hoa đào nở).

    + Hình ảnh song hành mực tàu, giấy đỏ, phố đông người .

    + Tài hoa và tấm lòng của người thảo chữ.

    + Nhiều người thuê viết, ngợi khen tài.

    → Hình ảnh ông đồ đẹp có tài và có tâm. Ông mang lại niềm vui cho mọi người bằng tấm lòng và tài năng của mình.

  - Hình ảnh ông đồ lạc thời, cô đơn trong khổ thơ 3 và 4.

    + Mỗi năm mỗi vắng: ông đồ mờ nhạt dần theo thời gian, không được mọi người chú ý nữa.

    + Giấy đỏ buồn, mực sầu – chính là tâm trạng của ông đồ.

    + Hình ảnh ông đồ bị mọi người lãng quên (ông đồ vẫn ngồi đấy/ qua đường không ai hay).

    + Hình ảnh lá vàng, mưa bụi: cảnh lạnh lẽo buồn thảm tô đậm tâm trạng buồn xót xa của ông đồ.

  - Hình ảnh đối lập của khổ 1,2 với khổ 3,4 là sự đối lập về cảnh và tâm trạng, gợi cho người đọc những suy ngẫm, xót thương cho ông đồ.Ông đồ dần bị đưa vào quên lãng khi không ai còn nhận ra giá trị từ những điều ông tạo ra.

    → Ông đồ ban đầu là trung tâm của sự chú ý dần dần bị quên lãng. Tâm trạng xót xa, buồn đau của ông đồ trước sự vô tình, ơ hờ của mọi người.

Câu 2 (trang 10 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :

  - Tâm trạng của tác giả được thể hiện ngầm ẩn sau những lớp hình ảnh mang tính ẩn dụ, biểu trưng.

    + Tác giả tạo ra cảnh đối lập về hình ảnh ông đồ nhằm gợi lên trong lòng người đọc niềm thương cảm về vị trí của ông đồ.

  - Tác giả bộc lộ trực tiếp tâm trạng, sự xót thương của mình ở cuối bài (những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?).

    → Sự thương cảm, xót xa của tác giả không chỉ dành cho ông đồ mà còn dành cho lớp người cũ bị quên lãng. Đó cũng chính là sự hòa niệm những giá trị tinh thần đẹp truyền thống bị mai một.

Câu 3 (trang 10 sgk Ngữ Văn 8 tập 2) :

  Bài thơ hay và hấp dẫn ở việc tạo ra những đối lập về hình ảnh, tâm trạng, cảm xúc đối xứng trong bố cục của bài thơ.

  - Tác giả dựng cảnh tương phản:

   + Ban đầu cảnh cho chữ đông vui tấp nập.

   + Càng về sau cảnh buồn bã, lạnh nhạt, hiu quạnh.

   + Một bên nét chữ như rồng bay phượng múa.

   + Một bên giấy đỏ buồn, mực sầu, cảnh hiu quạnh.

  - Cái kết đầu cuối tương ứng:

   + Vẫn là cảnh ngày tết, không gian mùa xuân có hoa đào nở.

   + Ông đồ mờ nhạt dần, cuối cùng thì không thấy nữa.

   + "ông đồ xưa" không còn tồn tại nữa.

  - Tác giả tái hiện lại những hoài niệm về thời "vàng son xưa cũ" của một thế hệ nhà Nho đẹp nhưng dần phai mờ.

  - Ngôn ngữ bình dị, trong sáng nhưng hàm súc, đầy dư vị.

    → Tác giả tái hiện được vẻ đẹp của cảnh cho chữ, hình tượng ông đồ xưa với bàn tay tài hoa- giá trị tinh thần truyền thống đẹp- đang dần mai một trong đời sống. Sự nuối tiếc, hoài cổ cảnh cũ người xưa.

Câu 4 (trang 10 sgk 8 tập 2) :

  Những câu thơ trên tả cảnh những ngụ tình:

   + Hình ảnh đẹp nhưng gợi ra sự tàn lụi, u uất.

   + Tâm trạng của ông đồ buồn thảm, bẽ bàng như chính những đồ vật gắn với nghề của ông ( giấy đỏ, mực tàu).

   + Biện pháp nhân hóa làm cho giấy, mực – tưởng như vô tri bỗng nhiên trở nên sinh động, mang tâm trạng sầu bi như con người.

   + Hình ảnh thiên thiên: lá vàng, mưa bụi càng tô đậm hơn sự hiu quạnh, lạnh lẽo của không gian cũng như sự vô tình, hờ hững quên lãng của người đời.

    → Là những câu thơ đẹp, hoài cổ, ghi lại dấu ấn và mang lại cho người đọc nhiều dư vị về cảnh cũ người xưa, những nét đẹp về văn hóa tinh thần "vang bóng một thời".

0
0
Tôi yêu Việt Nam
07/04/2018 11:19:25

Soạn bài: Ông đồ

Bố cục:

   Chia làm 3 phần:

    - Phần 1 (hai khổ thơ đầu): hình ảnh ông đồ có tài có tâm được mọi người chú ý.

    - Phần 2 (hai khổ 3, 4): tâm trạng của ông đồ khi dần rơi vào quên lãng.

    - Phần 3 (khổ thơ cuối): Sự tiếc nuối, cảm thương cho lớp người xưa cũ của tác giả.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 10 sgk Ngữ Văn 8 tập 2) :

  - Hình ảnh ông đồ cho chữ ngày Tết trong hai khổ thơ đầu: hình ảnh đẹp mang ý nghĩa biểu trưng của những giá trị truyền thống.

    + Gắn với Tết và mùa xuân (hoa đào nở).

    + Hình ảnh song hành mực tàu, giấy đỏ, phố đông người .

    + Tài hoa và tấm lòng của người thảo chữ.

    + Nhiều người thuê viết, ngợi khen tài.

    → Hình ảnh ông đồ đẹp có tài và có tâm. Ông mang lại niềm vui cho mọi người bằng tấm lòng và tài năng của mình.

  - Hình ảnh ông đồ lạc thời, cô đơn trong khổ thơ 3 và 4.

    + Mỗi năm mỗi vắng: ông đồ mờ nhạt dần theo thời gian, không được mọi người chú ý nữa.

    + Giấy đỏ buồn, mực sầu – chính là tâm trạng của ông đồ.

    + Hình ảnh ông đồ bị mọi người lãng quên (ông đồ vẫn ngồi đấy/ qua đường không ai hay).

    + Hình ảnh lá vàng, mưa bụi: cảnh lạnh lẽo buồn thảm tô đậm tâm trạng buồn xót xa của ông đồ.

  - Hình ảnh đối lập của khổ 1,2 với khổ 3,4 là sự đối lập về cảnh và tâm trạng, gợi cho người đọc những suy ngẫm, xót thương cho ông đồ.Ông đồ dần bị đưa vào quên lãng khi không ai còn nhận ra giá trị từ những điều ông tạo ra.

    → Ông đồ ban đầu là trung tâm của sự chú ý dần dần bị quên lãng. Tâm trạng xót xa, buồn đau của ông đồ trước sự vô tình, ơ hờ của mọi người.

Câu 2 (trang 10 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :

  - Tâm trạng của tác giả được thể hiện ngầm ẩn sau những lớp hình ảnh mang tính ẩn dụ, biểu trưng.

    + Tác giả tạo ra cảnh đối lập về hình ảnh ông đồ nhằm gợi lên trong lòng người đọc niềm thương cảm về vị trí của ông đồ.

  - Tác giả bộc lộ trực tiếp tâm trạng, sự xót thương của mình ở cuối bài (những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?).

    → Sự thương cảm, xót xa của tác giả không chỉ dành cho ông đồ mà còn dành cho lớp người cũ bị quên lãng. Đó cũng chính là sự hòa niệm những giá trị tinh thần đẹp truyền thống bị mai một.

Câu 3 (trang 10 sgk Ngữ Văn 8 tập 2) :

  Bài thơ hay và hấp dẫn ở việc tạo ra những đối lập về hình ảnh, tâm trạng, cảm xúc đối xứng trong bố cục của bài thơ.

  - Tác giả dựng cảnh tương phản:

   + Ban đầu cảnh cho chữ đông vui tấp nập.

   + Càng về sau cảnh buồn bã, lạnh nhạt, hiu quạnh.

   + Một bên nét chữ như rồng bay phượng múa.

   + Một bên giấy đỏ buồn, mực sầu, cảnh hiu quạnh.

  - Cái kết đầu cuối tương ứng:

   + Vẫn là cảnh ngày tết, không gian mùa xuân có hoa đào nở.

   + Ông đồ mờ nhạt dần, cuối cùng thì không thấy nữa.

   + "ông đồ xưa" không còn tồn tại nữa.

  - Tác giả tái hiện lại những hoài niệm về thời "vàng son xưa cũ" của một thế hệ nhà Nho đẹp nhưng dần phai mờ.

  - Ngôn ngữ bình dị, trong sáng nhưng hàm súc, đầy dư vị.

    → Tác giả tái hiện được vẻ đẹp của cảnh cho chữ, hình tượng ông đồ xưa với bàn tay tài hoa- giá trị tinh thần truyền thống đẹp- đang dần mai một trong đời sống. Sự nuối tiếc, hoài cổ cảnh cũ người xưa.

Câu 4 (trang 10 sgk 8 tập 2) :

  Những câu thơ trên tả cảnh những ngụ tình:

   + Hình ảnh đẹp nhưng gợi ra sự tàn lụi, u uất.

   + Tâm trạng của ông đồ buồn thảm, bẽ bàng như chính những đồ vật gắn với nghề của ông ( giấy đỏ, mực tàu).

   + Biện pháp nhân hóa làm cho giấy, mực – tưởng như vô tri bỗng nhiên trở nên sinh động, mang tâm trạng sầu bi như con người.

   + Hình ảnh thiên thiên: lá vàng, mưa bụi càng tô đậm hơn sự hiu quạnh, lạnh lẽo của không gian cũng như sự vô tình, hờ hững quên lãng của người đời.

    → Là những câu thơ đẹp, hoài cổ, ghi lại dấu ấn và mang lại cho người đọc nhiều dư vị về cảnh cũ người xưa, những nét đẹp về văn hóa tinh thần "vang bóng một thời".

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo