Bà chúa Tuyết - Phần 1

284 lượt xem
Bà chúa Tuyết - Phần 1,Bà chúa Tuyết,Tấm gương và những mảnh gương vỡ,Đọc truyện Bà chúa Tuyết - Phần 1,Truyện cổ Andersen,Truyện cổ Andersen hay đặc sắc,Truyện Andersen chọn lọc

Truyện thứ nhất

Tấm gương và những mảnh gương vỡ

Các bạn hãy chú ý. Tôi bắt đầu kể. Đến khi kể hết truyện chúng ta sẽ hiểu hơn lúc ban đầu vì đây là chuyện một con quỷ!

Một hôm quỷ ta rất vui sướng vì đã làm ra một tấm gương rất kỳ lạ. Những vật tốt đẹp soi vào đấy đều chẳng ra cái gì cả, trái lại những vật xấu xí lại càng rõ nét và nổi bật hẳn lên, trông lại càng xấu xí hơn. Những phong cảnh đẹp thì trông như mớ rau muống luộc, những người tốt nhất trở thành đáng ghét hay là đi lộn đầu xuống đất, có khi mất cả bụng. Mặt họ méo mó đến nỗi người ta không thể nhận ra họ nữa. Nếu người ta chỉ có một vết tàn nhang thôi thì nhìn vào gương, vết tàn nhanh ấy sẽ lan ra khắp mũi và xung quanh mồm. Quỷ cho thế là thích thú lắm. Khi một người có một ý nghĩ tốt thì ý nghĩ đó sẽ phản ảnh trong gương thành những nét nhăn nhó và quỷ ta cười khoái trá về phát minh xảo quyệt của hắn.

Tất cả đồ đệ của quỷ (vì quỷ có một trường phái) kể lại rằng tấm gương ấy là một kỳ quan. Chúng bảo:

- Bấy giờ người ta có thể biết bộ mặt thật của thế giới và loài người.

Và chúng mang tấm gương đi khắp nơi đến nỗi chẳng một vật nào, chẳng một người nào không bị quỷ làm méo mó đi. Chúng muốn bay lên tận trời để nhạo báng các tiên đồng và cả chúa trời nữa. Chúng càng bay cao, gương càng nhăn nhó. Khó nhọc lắm chúng mới giữ nổi gương. Chúng bay lên, bay lên mãi và cuối cùng bay đến gần Thượng đế và các tiên đồng. Tấm gương nhăn nhó, rúm ró lại cong queo đến nỗi tuột khỏi tay lũ quỷ và rơi vỡ tan ra cả triệu mảnh.

Như thế sự tác hại còn lớn hơn trước nữa, vì một số mảnh chỉ bằng hạt cát bị cuốn bay khắp thế giới và một khi đã bay vào mắt người thì người ấy nhìn mọi vật đều có phép ma như cả tấm gương lớn.

Một số người bị mảnh gương bắn vào tim, thật là khủng khiếp vì tim họ trở thành lạnh như nước đá. Có mấy mảnh to có thể làm kính được, nhưng chớ có nhìn bạn bè qua những tấm kính ấy!

Còn thằng quỷ thì được mẻ cười vỡ cả bụng...Than ôi! Cho đến ngày nay trong không trung còn vô khối mảnh vỡ của tấm gương thần.

Truyện thứ hai

Hai em bé

Giờ mời các bạn nghe một truyện khác.

Giữa một thành phố, dân cư đông đến nỗi không đủ chỗ để mỗi người có một mảnh vườn con, phải trồng hoa trong chậu. Tuy nhiên cũng có hai em bé nghèo khổ có được một mảnh vườn lớn hơn chậu hoa một tí. Chúng chẳng phải là anh em ruột nhưng chúng yêu thương nhau như con một nhà. Cha mẹ chúng ở cạnh nhau, trên hai buồng gác sát mái nhà. Ở giữa hai căn buồng, có máng nước, mỗi buồng có một cửa sổ nhỏ. Chỉ cần bước qua máng nước là nhà nọ sang nhà kia được.

Cha mẹ chúng treo dưới mái nhà một cái thùng gỗ lớn, trồng rau trong thùng để ăn và cả một cây hoa hồng nữa. Như thế là một thùng có một gốc hồng và những gốc hồng này mọc rất khỏe.

Cha mẹ chúng nghĩ ra cách đặt hai thùng trên máng nước và làm thành một chiếc cầu bắc giữa hai cửa sổ, có thể gọi đó là một cái vườn nhỏ, các thứ cây trong vườn mọc rất tốt. Những quả đậu lủng lẳng trên thùng gỗ, hồng uốn cành quấn quanh cửa sổ, cây nọ ngả vào cây kia, trông như một khải hoàn môn xanh tươi kết bằng hoa lá.

Hai trẻ được phép chơi với nhau trên mặt thùng. Chúng ngồi trên những cái ghế con, dưới đám hoa hồng và chơi đùa ngoan ngoãn.

Mùa đông đến, cửa kính phủ đầy băng giá. Hai trẻ, em trai tên là Kay, em gái là Giécđa, lấy tiền siling bằng đồng hơ vào bếp lò rồi ép tấm kính lạnh ngắt và như thế là trên mỗi cửa kính thành hình một lỗ kính trong, tròn và nhỏ, có thể nhìn qua được.

Mùa hè chỉ nhảy một bước chúng đã sang tới nhà nhau rồi, nhưng mùa đông thì phải leo lên leo xuống rất nhiều cầu thang mới gặp nhau được, ngoài trời tuyết bay tới tấp. Bà của Kay nói:

- Đàn ong trắng đang vo ve đấy.

- Chúng có chúa không, hở bà? - Kay hỏi bà vì nó biết rằng ong thì phải có chúa.

Bà đáp:

- Nhất định là có chứ! Ong chúa bay ở nơi tuyết rơi dày đặc nhất. Ong chúa to nhất đàn và chẳng bao giờ nó đậu trên đất cả. Nó bay luôn luôn vào trong mây. Nhiều đêm đông, nó bay qua các phố trong thành và nhìn qua cửa kính. Lúc đó cửa kính phủ đầy băng giá, hình thành những bông hoa trắng đẹp tuyệt vời.

- Ồ! Vâng, cháu đã thấy rồi! - Hai đứa bé đồng thanh nói vì chúng tin rằng bà cụ nói thật.

- Bà chúa tuyết có vào nhà được không, hả bà? - Giécđa hỏi.

- Có chứ, bà đáp.

- Cứ vào đây mà xem! Kay nói. Mình sẽ cho bà ấy lên bếp lò nóng để cho bà ấy chảy tan ra.

Bà Kay vuốt tóc cháu và kể sang những chuyện khác.

Buổi tối, Kay mặc quần áo lót, trèo lên chiếc ghế tựa gần cửa sổ và nhìn qua một lỗ, ra ngoài trời. Vài bông tuyết rơi xuống, một bông lớn nhất bám vào cạnh thùng gỗ. Bông tuyết lớn lên, lớn mãi, rồi biến thành một người đàn bà mặc áo trắng dài rực rỡ, trông như dệt bằng ức triệu sợi bông nhỏ ti có điểm sao. Trông bà ta lịch sự và đáng yêu, nhưng người bà toàn băng giá, trông lóa cả mắt. Tuy nhiên bà ta vẫn có vẻ như một người thật.

Mắt bà như đôi sao sáng, nhìn mãi không chớp. Bà ta nhìn về phía cửa sổ, gật đầu và vẫy tay. Kay hoảng sợ nhảy tọt xuống dưới ghế. Hình như cu cậu trông thấy một con chim lớn bay qua cửa sổ con sát mái nhà.

Ngày hôm sau, trời rét khan. Rồi tuyết tan, mùa xuân lại tới. Mặt trời rọi sáng, cây cỏ xanh tươi, chim nhạn làm tổ, cửa sổ mở ra và hai đứa trẻ lại ra ngồi chơi trong cái vườn nhỏ cao tít, trên chốc các tầng gác, gần máng nước sát mái nhà.

Hè tới, hồng trổ hoa rực rỡ. Bé Giécđa đã học thuộc một bài thánh ca thi nói đến hoa hồng, bé hát cho Kay nghe:

Hoa hồng mọc trong thung lũng,

Nơi mà Đức chúa Giêxu đang phán bảo ta.

Đôi trẻ, tay cầm tay, hôn vào những bông hồng, ngắm nhìn mặt trời trong sáng của Thượng đế và nói với lên như là nói với chúa Giêxu vậy. Những ngày hè sao mà đẹp thế! Sung sướng thay các cảnh được ra chơi với nhau bên những gốc hồng tươi tốt không ngừng nở hoa!

Kay và Giécđa đang ngồi xem tranh vẽ súc vật trong một quyển sách. Đồng hồ ở gác chuông nhà thờ điểm năm giờ, bỗng nhiên Key kêu lên:

- Ái, mình đau nhói ở tim và có vật gì bắn vào mắt mình ấy!

Giécđa chẳng trông thấy gì cả.

- Có lẽ nó bắn ra kia rồi! - Kay nói.

Nhưng Kay đã nhầm. Chính là một trong những mảnh gương quái ác, chắc các bạn còn nhớ tấm gương quỷ quái làm cho tất cả những cái gì cao quý và đẹp đẽ soi vào sẽ trở thành bần tiện và xấu xa, còn cái gì đã xấu xa soi vào gương càng xấu xa thêm và từng tật của từng vật sẽ bị bộc lộ ngay lập tức. Kay đáng thương vừa bị một mảnh gương ấy bắn vào tim và từ đấy tim của Kay không thấy đau đớn nữa, nhưng tai hoạ đã đến với em. Kay hỏi Giécđa:

- Sao lại khóc hử? Trông Giécđa xấu quá đi mất! Tôi chẳng thích cái gì cả. Phì! Cái hoa hồng này bị sâu ăn rồi. Cái này thì héo rồi. Toàn những loại hồng vất đi cả, trông giống như những cái thùng gỗ trồng cây hồng ấy!

Vừa nói chú vừa đá mạnh vào thùng và vặt hai bông hồng.

- Kay, làm gì thế? - Giécđa thét lên.

Nhưng khi thấy bạn sợ hãi, Kay vặt thêm bông hồng nữa và chạy ra cửa sổ, tác xa bé Giécđa đáng yêu.

Giécđa mang tập tranh đến, Kay chế giễu những bức tranh đẹp và quyển sách tốt ấy. Khi bà Kay kể chuyện cổ tích, Kay vẫn tới nghe như cũ, nhưng làm sao mà cắt nghĩa được sự thay đổi của chú bé? Chú ngồi ra đằng sau bà cụ, đeo kính vào rồi nhại lại những lời cụ kể. Chú bắt chước khéo lắm, làm cho mọi người đều phì cười. Ít lâu sau, chú bắt chước và đi theo tất cả mọi người trên đường phố. Ai có tật gì kì quái hoặc xấu xí, Kay bắt chước được ngay và mọi người đều khen:

- Thằng bé này thật thông minh!

Chính mảnh gương vỡ đã bắn vào mắt Kay, chính mảnh gương vỡ đã chui vào tim em bé, phải, chính vì thế mà em đã chế nhạo đến cả Giécđa mà trước đây em rất mực yêu quý. Những trò chơi giữa đôi trẻ trước đây vui vẻ là thế, giờ không còn gì là hứng thú.

Một ngày mùa đông, tuyết rơi không ngớt, Kay mang ra ngoài trời một kính hiển vi rồi giơ vạt áo hứng những bông tuyết. Kay bảo:

- Giécđa nhìn qua kính mà xem này!

Mỗi bông tuyết hình như lớn hẳn lên, trông giống như một đóa hoa rực rỡ hay giống như một ngôi sao mười cánh! Thật là đẹp!

- Đẹp sao đẹp thế! - Kay nói - Giécđa thấy không? Đẹp bằng mấy hoa thực ấy chứ! Hoa tuyết chẳng có tý tì vết nào, thật là hoàn toàn cho đến lúc nó tan thành nước.

Lát sau, Kay, tay đi găng, vác chiếc xe trượt tuyết tới. Em nói với Giécđa:

- Tớ được phép đi trượt tuyết ở quảng trường với mọi người đây.

Nói rồi Kay ra chỗ bãi trượt tuyết. Những trẻ can đảm nhất thường hay buộc xe trượt tuyết sau xe của các bác nông dân để được đi chơi xa. Trò chơi ấy thật là thú vị. Bọn trẻ đang nô đùa với nhau, bỗng có một chiếc xe trượt tuyết lớn đi tới, một người đàn bà ngồi trong, quấn mình trong chiếc áo choàng lông trắng và đội một chiếc mũ trắng. Chiếc xe chạy quanh bãi hai vòng.

Kay buộc xe của mình vào sau xe ấy và trượt theo. Họ đi vào phố cạnh đấy. Chiếc xe trượt đi mỗi lúc một nhanh hơn. Người đàn bà ngồi trên xe quay lại mỉm cười với Kay, hình như bà quen biết em thì phải. Mỗi lần Kay định tháo xe của mình ra thì người đàn bà lạ mặt lại lắc đầu ra hiệu, làm cho Kay không dám cử động nữa. Cứ như thế họ ra tới cửa ô. Lúc ấy tuyết rơi dày đặc đến nỗi Kay không nhìn thấy hai bàn tay của em nữa.

Kay vội vàng tháo dây thừng nối xe của em vào xe trượt lớn, nhưng vô hiệu. Chiếc xe nhỏ của em như bị nối liền vào xe lớn và bị lôi theo nhanh như gió.

Kay kêu lên rất to, nhưng chẳng có ai nghe thấy cả. Tuyết rơi quay cuồng và xe vẫn cứ chạy. Thỉnh thoảng xe lại xóc lên như chạy qua những cánh đồng và thảo nguyên vậy. Kay lo sợ. Em muốn đọc một bản kinh, nhưng em chỉ nhớ có bản cửu chương mà thôi.

Những bông tuyết lớn, lớn mãi, lớn bằng những con gà. Ngựa kéo xe bỗng nhảy tránh sang một bên. Chiếc xa dừng lại và người ngồi trên xe đứng dậy. Áo choàng và mũ người ấy đầy những tuyết. Đó là một bà có vẻ quý phái, cao lớn, cứng cỏi, trắng toát: Bà chúa tuyết.

- Thế là chúng ta đã đến nơi bình yên vô sự! - Bà nói - Nếu em rét thì chui vào tấm da gấu của ta.

Bà đặt Kay vào trong xe. cạnh bà, và kéo chiếc áo choàng lông thú lên người em. Em ngồi đó như bị vùi trong một đống tuyết.

- Em còn rét không? - Bà vừa hỏi vừa ôm hôn lên trán em.

Cái hôn lạnh buốt và thấm vào tận tim Kay. Trái tim bị lạnh như băng giá. Em cảm thấy như sắp chết!

Nhưng cảm xúc ấy chỉ thoáng qua một lát thôi. Xung quanh em mọi vật đều mờ nhạt, không trông rõ. Em kêu lên:

- Cái xe trượt của tôi! Chớ có quên cái xe trượt của tôi!

Đó là vật đầu tiên mà em nghĩ đến sau khi tỉnh lại. Bà ta buộc xe của em lên lưng một con gà trắng, nó bay sau họ, mang theo chiếc xe trên lưng. Bà lại hôn Kay một lần nữa, em quên hẳn bé Giécđa, bà và bố mẹ em.

- Ta chỉ hôn em lần này nữa thôi, Bà chúa tuyết nói, vì em sẽ chết nếu ta hôn em lần nữa.

Kay nhìn bà ta. Bà rất đẹp. Không ai có thể tưởng tượng được một khuôn mặt nào diễm lệ hơn. Bà không cuộc sống vẻ lạnh lùng như băng giá như hôm bà vẫy tay ra hiệu cho Kay ngoài cửa sổ nhà em. Đối với Kay, bà thật là hoàn mỹ. Em không cảm thấy sợ hãi nữa và kể với bà là em biết làm tính nhẩm, biết làm toán luật ba, biết diện tiác và dân số của vài nước. Bà chúa tuyết mỉm cười. Kay cảm thấy sự hiểu biết của mình chưa đâu vào đâu và em đã đưa mắt nhìn ra khoảng không bao la. Gió bão rít lên điên cuồng, nghe thoáng như có tiếng vọng của những bài hát cổ.

Họ vượt qua nhiều rừng rậm hồ ao, biển cả và đất đai. Một luồn gió lạnh như băng thổi dưới chân họ, chó sói hú vang, tuyết lóng lánh, quạ đen vừa bay vừa kêu ran. Ban đêm trăng lấp lánh chiếu khắp bầu trời. Ban ngày Kay ngủ dưới chân Bà chúa tuyết.

Truyện thứ ba

Vườn nhà bà biết làm phép lạ

Khi Kay đi rồi thì Giécđa nghĩ gì nhỉ? Kay đi đâu? Chẳng ai biết, chẳng ai biết mảy may gì về hương đi của Kay, chỉ có bọn trẻ con kể lại rằng chúng đã thấy Kay buộc xe của nó vào một chiếc xe trượt lớn và đã đi ra phía cửa ô. Biết bao nhiêu nước mắt đã chảy, bé Giécđa cũng khóc mãi không thôi. Cuối cùng người ta đoán rằng Kay đã chết, là em đã rơi xuống con sông gần đấy.

Mùa xuân lại đến và mặt trời lại chói lọi.

- Chắc là Kay đã chết ở một nơi rất xa - Giécđa nói.

- Ta không tin là thế- Mặt trời bảo.

- Chắc là Kay đã chết ở một nơi rất xa. - Bé nói với bầy chim nhạn.

- Chúng tôi không tin điều đó!- Bầy chim trả lời.

Cuối cùng Giécđa cũng không tin là Kay đã chết. Một buổi sáng em nói:

- Mình đi đôi giày đỏ mới tinh mà Kay chưa trông thấy bao giờ và ra sông để hỏi xem Kay ở đâu.

Trời mới tảng sáng, em hôn bà em, lúc bấy giờ đang còn ngủ, xách đôi giày đỏ ra đi một mình, theo lối cửa ra sông.

- Sông ơi, có thực là sông đã bắt đứa bạn thường vẫn chơi đùa với tôi không? Tôi sẽ biếu ông đôi giày đỏ nếu ông trả lại bạn cho tôi.

Hình như các ngọn sóng đang niềm nở đón chào em. Em ném đôi giày mà em quý nhất trên đời xuống dòng nước đang chảy xiết. Nhưng giày rơi gần bờ quá, sóng lại đánh dạt vào. Hình như sông từ chối không nhận vật quý nhất của Giécđa, vì sông có bắt Kay đâu! Em lại tưởng rằng mình quăng chưa được xa, nên em trèo lên một chiếc xuồng đang nổi giữa bụi cói, đi ra tận mũi xuồng để ném đôi giày xuống lần nữa. Chiếc xuồng không buộc nên trôi ra xa. Em thấy thế vội đi lại phía đuôi xuồng, nhưng xuồng đã trôi cách bờ hơn một mét rồi và ngày cành lướt đi nhanh hơn.

Giécđa sợ quá khóc oà lên, nhưng chẳng ai nghe thấy, ngoài đàn chim sẻ. Chim chẳng thể mang em vào bờ được. Chúng vừa bay dọc hai bên bờ vừa hót để an ủi em:

- Có chúng tôi đây! Có chúng tôi đây!

Xuồng trôi theo dòng nước, tách xa hẳn bờ sông. Giécđa ngồi trên xuồng, chân chỉ còn có bít tất. Đôi giày nổi ở phía sau, không trôi kịp xuồng. Hai bên bờ, trăm hoa đua nở, cây cổ thụ um tùm, hàng đàn bò và cừu gặm cỏ trên cánh đồng, nhưng không có một bóng người.

- Có lẽ dòng sông sẽ đưa ta đến với Kay bẽ nhỏ của ta chăng, Giécđa thầm nghĩ.

Ý nghĩ đó làm em vui hẳn lên. Em đứng dậy và ngắm nghía hai bên bờ xanh tươi có tới hành giờ. Xuồng trôi qua một khu vườn lớn trồng toàn anh đào, trong vườn có một ngôi nhà nhỏ, có những cửa sổ kỳ quặc sơn xanh đỏ. Nhà lợp rạ và đằng trước có hai chú lính gỗ bồng súng như chào người qua lại. Giécđa tưởng họ là người thật, kêu cứu, nhưng tất nhiên là họ không trả lời. Dòng nước đẩy xuồng sát vào bờ, gần ngôi nhà. Giécđa kêu to hơn. Một bà lão từ trong nhà ra, Bà chống nạng và đội một chiếc mũ cói lớn.

- Khốn khổ con bé! - Bà lão nói - Sao lại bị trôi trên dòng sông chảy siết như thế này?

Bà lấy nạng khều, kéo xuồng vào bờ và đỡ Giécđa lên bờ. Em sung sướng được đi trên đất, nhưng cũng hơi sợ bà lão không quen biết này.

- Cháu lại đây, cháu là con nhà ai? Sao cháu lại đi đến tận đây?

Giécđa thuật lại sự việc đã xảy ra. Bà lão lắc đầu: “Hừ! Hừ!” Khi Giécđa hỏi bà có trông thấy Kay không, bà lão trả lời rằng Kay không qua đây, nhưng chắc là Kay sẽ đến. Như thế thì chẳng nên buồn mà hãy nếm những quả anh đào thơm ngọt và ngắm những bông hoa đẹp hơn hoa của bất cứ tập tranh nào. Mỗi bông hoa lại biết kể một câu chuyện rất dài.

Bà lão cầm tay Giécđa dắt vào nhà và đóng cửa lại. Qua các cửa sổ rất cao, qua các ô kính màu đỏ, màu xanh, màu vàng rọi vào nhà một ánh sáng diệu kỳ. Trên bàn bày đầy những quả anh đào trông rất ngon lành. Giécđa muốn ăn bao nhiêu cũng được. Bà lão lấy chiếc lược bằng vàng chải tóc cho em, uốn thành những búp vàng óng ánh xung quanh khuôn mặt xinh xắn rất đáng yêu của Giécđa. Đã từ lâu mơ ước có một cháu gái, bà lão nói:

- Bà sẽ tìm hết cách làm cho cháu hết buồn phiền.

Trong khi bà chải tóc cho Giécđa, dần dần em quên luôn cả Kay, bạn thân nhất của em, vì bà lão có phép lạ. Nhưng bà không phải là một bà phù thuỷ ác nghiệt. Bà chỉ thích làm điều lành và bà rất muốn giữ Giécđa lại. Vì thế bà ra vườn lấy nạng trỏ vào đám cây hoa hồng làm cho hoa đang nở đẹp bỗng chui biến ngay vào trong đất đen, không còn trông thấy vết tích của hoa nữa. Bà lão sợ rằng trông thấy hoa Giécđa sẽ nhớ đến Kay và bỏ đi mất.

Bà dẫn Giécđa vào vườn. Cảnh ở đây tuyệt đẹp, hương thơm ngào ngạt. Ở đây có tất cả các loài hoa, nhiều không thể tưởng tượng được, hoa của cả bốn mùa, muôn màu, muôn vẻ. Không có tập tranh nào có đầy đủ màu sắc và đẹp đến như thế. Giécđa vui vẻ nhảy nhót khắp nơi. Em vui đùa đến lúc mặt trời lặn sau đám cây anh đào. Bà lão sửa soạn cho em một chiếc giường thật lộng lẫy, có gối đỏ viền tím để em ngủ mơ thấy những giấc mộng đẹp như những giấc mộng của một bà hoàng.

Hôm sau, em lại chơi với hoa dưới nắng ấm. Nhiều ngày đã trôi qua đi như vậy. Giécđa thuộc từng bông hoa, nhưng hoa nhiều thế mà dường như em cảm thấy thiếu một bông. Bông gì em cũng chả biết.

Một hôm em đang ngồi, chợt nhìn vào chiếc mũ có vẽ hoa của bà lão mà đoá hoa đẹp nhất lại có một bông hồng. Bà lão đã làm phép cho các hoa hồng chui xuống đất, nhưng lại quên mất bông hồng trên mũ. Ở đời ai mà có thể nghĩ đến mọi thứ trong một lúc!

- Sao? Giécđa hỏi. Ở đây không có hoa hồng ư, bà?

Em chạy vào các luống hoa, tìm mãi, tìm mãi cũng chẳng thấy có hoa hồng. Em ngồi xuống oà lên khóc. Nước mắt em nhỏ xuống đúng vào nơi một cây hoa hồng đã biến mất, làm ướt đất và liền ngay đấy hoa hồng lại mọc lên, tươi tắn như trước lúc chui xuống đất. Giécđa ôm lấy cây hồng, hôn vào hoa, nghĩ đến bông hồng ở nhà và nghĩ luôn đến Kay.

- Chết! Mình bỏ phí mất biết bao thời gian rồi! -Em nói- Mình phải đi tìm Kay chứ? Hoa có biết Kay ở đâu không? Hoa có tin rằng Kay đã chết ở một nơi rất xa không?

Hoa hồng đáp:

- Kay chưa chết đâu! Chúng tôi vừa ở dưới đất, chỗ ở của những người chết lên, nhưng không gặp cậu ta.

Giécđa nói: - Cảm ơn hoa nhé!

Em đi tới các hoa khác, ngó vào đài hoa mà nói:

- Hoa có biết Kay bây giờ ở đâu không?

Nhưng dưới ánh mặt trời, hoa chỉ thuật lại những sự việc đã xảy ra trong đời hoa. Giécđa biết thêm được nhiều truyện đấy, nhưng chẳng hoa nào nói cho biết rằng Kay ở đâu.

Hoa huệ đỏ kể:

- Em có nghe thấy tiếng trống không? Chỉ có hai tiếng: Tùng! Tùng! Hãy nghe tiếng hát của người đàn bà góa chồng! Hãy nghe các tăng lữ cầu kinh! Một phụ nữ Ấn Độ bận áo dài đỏ trèo lên dàn hoả táng, ngọn lửa quấn quanh lấy bà và xác chồng bà, nhưng bà lại nghĩ đến người vẫn sống trong trái tim bà, nghĩ đến người có đôi mắt sáng rực hơn cả dàn lửa, người mà cái nhìn nồng cháy thâm nhập vào bà mạnh hơn cả ngọn lửa sắp thiêu thân thể bà thành tro bụi. Ngọn lửa của trái tim có thể chết trong ngọn lửa của giàn củi không nhỉ?

Giécđa nói:

- Mình chịu, không hiểu một tí gì cả!

- Đó là chuyện đã xảy ra trong đời tôi! - Huệ đỏ nói.

- Còn hoa bìm bìm định kể chuyện gì nào?

- Phía trên con đường mòn phía trên núi cheo leo có một tòa lâu đài. Cây côi quanh năm xanh tươi, mọc trên những bức tường màu đỏ, đến tận bao lơn và trên bao lơn, có một cô gái rất đẹp hay đứng ở đấy. Nàng cúi mình nhìn qua khe núi xuống dưới đường. Trong đám hoa hồng lủng lẳng trên cành chẳng có hoa nào tươi đẹp bằng nàng. Hoa mận bị gió cuốn đi cũng chẳng nhẹ nhõm hơn nàng. Bộ áo lụa của nàng phập phồng trước gió. Còn chàng, sao chàng chưa tới nhỉ?

Giécđa hỏi:

- Hoa nghĩ đến Kay phải không?

Bìm bìm trả lời:

- Mình chỉ kể lại đời mình, thuật lại giấc mơ của mình thôi.

- Hoa mao lương kể chuyện gì đấy?

- Giữa hàng cây người ta treo dây và ván gỗ để làm đu, hai em bé xinh đẹp đang đánh đu, trên mũ mỗi em có dính một bông hoa hồng trắng như tuyết và một dải lụa xanh phất phơ theo chiều gió. Hai em ngồi bỏ thõng chân, còn anh của các em thì đứng trên đu. Em trai quấn cánh tay vào dây để giữ đu cho chắc hơn, vì một tay em còn phải cầm cái bát và tay kia cái ống thổi bọt xà phòng bằng đất, Em vừa đánh đu vừa thổi hàng dây bong bóng bằng nước xà phòng, chúng bay lên và trông như nhuộm bằng rất nhiều màu sắc. Cái bong bóng cuối cùng dính vào ống thổi và bị gió thổi ngả về một bên. Một con chó đen bé nhỏ đứng vươn trên hai cẳng sau để với theo đu. Đu bay, chó ta ngã xuống và sủa om lên. Bong bóng xà phòng vỡ dần. Một mảnh ván bay, một bong bóng vỡ, đó là câu ca của tôi.

- Truyện hoa kể cũng hay đấy, nhưng giọng hoa buồn lắm và hoa chẳng hề nhắc đến tên Kay. Dạ hương lan nói gì nào?

- Có ba chị em trong trắng và đáng yêu. Một cô áo đỏ, một cô áo xanh, một cô áo trắng. Tay cầm tay các cô nhảy múa trên mặt hồ phẳng lặng dưới ánh trăng, Không khí ngát hương thơm. Họ biến vào trong rừng. Hương càng thơm ngát. Một lát sau, ba cỗ quan tài, có ba cô gái nằm trong đó, từ trong rừng tối om tuột xuống mặt hồ. Bốn bề đom đóm đậu trên cành trông như những ngọn đèn con. Các cô gái đang ngủ hay đã tắt thở rồi? Hương thơm của muôn hoa làm cho ta cảm thấy rằng các cô đã chết! Chuông chiều rung bản cầu hồn...

- Hoa làm mình sợ quá!- Giécđa nói- Hương hoa nồng quá làm cho mình nghĩ rằng các cô gái đã chết và Kay nữa, nhưng có thật là Kay đã chết rồi không? Những bông hoa hồng đã bị chôn dưới đất bảo rằng Kay chưa chết, có thật thế không?

- Kính coong! - Hoa dạ hương lan hình chuông rung lên. Chúng tôi không rung chuông cầu nguyện cho Kay đâu vì chúng tôi không biết Kay là ai cả! Chúng tôi chỉ hát lên bài hát của chúng tôi, bài hát độc nhất mà chúng tôi biết.

Giécđa, đi đến bông hoa tuyết đang lấp lánh trong chùm lá xanh biếc. Em nói:

- Hoa đẹp như một mặt trời con trong sáng. Hãy chỉ cho mình nơi mình có thể tìm thấy Kay, bạn chí thân của mình.

Hoa tuyết âu yếm nhìn Giécđa. Hoa hát bài gì bây giờ nhỉ? Bài hát của hoa cũng chẳng liên quan gì đến Kay cả:

- Ngày đầu xuân, mặt trời nóng bỏng soi xuống một cái sân nhỏ. Tia nắng lướt tới tận bức tường trắng nhà bên cạnh, nơi đó mọc lên những bông hoa màu vàng đầu tiên, lóng lánh hệt như vàng thật. Một bà cụ già ngồi trên ghế bắc ngoài sân. Cô cháu gái của bà nghèo, phải đi ở, nhưng rất xinh, tạt và thăm bà và chỉ có thể phát ra từ một trái tim quý hơn vàng. Cặp môi của cô gái và cho đến ánh bình minh cũng lóng lánh như vàng thật. Đó là mẩu chuyện của hoa tuyết.

- Mẩu chuyện ấy làm cho mình nghĩ đến bà đáng thương của mình, Giécđa thở dài- Phải, chắc là bà đang buồn phiền vì mình, cũng như bà rất buồn rầu vì sự vắng mặt của Kay. Mình sẽ về và dẫn cả Kay về nữa. Hỏi mãi các cũng vô ích. Hoa chỉ biết chuyện của hoa mà thôi. Hoa chẳng chỉ bảo được thêm tí gì cả.

Em vén cái váy xinh xinh để chạy được nhẹ nhàng hơn. Nhưng hoa thuỷ tiên đạp vào chân em khi em nhảy qua. Em dừng lại, nhìn hoa và hỏi:

- Có thể là hoa biết chút gì chăng?

Em cúi xuống đoá thuỷ tinh xinh xinh. Hoa nói:

- Trên cái gác xép kia, có một vũ nữ bé nhỏ đang tập nhảy, khi thì nhảy với cả hai chân, khi thì co hẳn một chân lên rồi lại bỏ chân xuống, trông choáng cả mắt. Nào, giơ chân lên nào! Và cứ thế cô đong đưa như đứng trên một cái cuống hoa.

- Mình chẳng thích nghe chuyện ấy đâu!

Giécđa nói. Đừng kể với mình chuyện ấy làm gì vô ích. Em chạy ra cửa vườn. Cửa đóng chặt, nhưng em cũng tháo được chốt và cánh cửa mở ra. Giécđa chạy ra, chân giẫm đất. Ba lần em ngoảnh lại nhìn về phía sau, nhưng chẳng có ai đi theo em cả. Cuối cùng, mỏi chân, em ngồi xuống một tảng đá. Nhìn xung quanh em nhận ra rằng mùa hè đã qua rồi. Trời đang vào độ cuối thu, điều mà ở trong khu vườn luôn có ánh nắng và đầy hoa bốn mùa em không thể nhận ra được.

- Trời! Ta mất biết bao nhiêu là thời gian! Đã sang thu rồi ư? Thế thì mình chẳng nên nghỉ ngơi nữa!

Em đứng dậy và lại lên đường. Chân em mỏi rồi. Xung quanh em, mọi vật đã bắt đầu chịu ảnh hưởng của giá lạnh. Lá liễu đã vàng úa và rỏ sương xuống mặt nước. Lá bắt đầu rụng. Riêng có một cây dương mai đang nặng trĩu những quả chát lè, ăn vào ghê cả răng. Cảnh vật xám xịt và nặng nề.

Đọc tiếp: Bà chúa Tuyết - Phần 2

0
0 sao / 0 đánh giá
5 sao - 0 đánh giá
4 sao - 0 đánh giá
3 sao - 0 đánh giá
2 sao - 0 đánh giá
1 sao - 0 đánh giá
Điểm 0 SAO trên tổng số 0 đánh giá
Bình luận
Chưa có bình luận nào, bạn có thể gửi bình luận tại đây
Gửi bình luận của bạn tại đây (*):
(Thông tin Email/ĐT sẽ không hiển thị phía người dùng)
*Nhấp vào đây để nhận mã Nhấp vào đây để nhận mã
Bạn có truyện hay, hãy gửi cho mọi người cùng xem tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi truyện
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k