LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

VỀ NHÀ

285 lượt xem

Nếu như ở P vào những năm 20 thế kỷ trước, khi đó, tôi hãy còn là tên bồi bàn ở La Closerie de Lilas, nơi Ernest thường qua lại uống rượu, viết văn. Ông chú tâm vào việc viết hơn là bận tâm những thứ đang xảy ra xung quanh mình. Và tôi nghĩ ông như tâm điểm của sự chú ý, nếu như năm mươi năm về sau người ta biết rằng, có một đại văn hào đã ngồi đó, cặm cụi viết từng dòng, từng dòng. Thú thực khi ấy, tôi trông ông như bao chàng thanh niên tuổi đôi mươi với bao hoài bão trong khối óc và con tim, từng làn sóng đang cuộn trào bên trong, trực chờ phá vỡ tấm màng ngăn cách giữa hai thế giới ấy. Tôi đã chợt nhận ra rằng, mình đã ngắm nhìn tuổi trẻ của chính mình qua một lăng kính hoàn toàn khác.

P là một thành phố nơi mà ai cũng một lần muốn đặt chân tới, một lần trong đời. Sau này, qua nhiều dòng hồi ức, các bài đăng báo theo kỳ, hằng kỳ, tôi biết được người ta đã ca tụng thành phố này tới nhường nào. Như ngôi nhà thứ 2 của chúng ta. Như nơi thứ hai đã chứa chấp và không đối xử với ta một cách tệ bạc. Tôi chẳng biết. Có khi, trong lòng mình, với nhiệm vụ của một tên bồi bàn, một linh hồn lạc lõng giữa thành phố rộng lớn, mênh mang này, thì tôi chẳng bao giờ nghĩ nhiều tới những chuyện mang màu sắc ảm đạm, u ám. Cũng có khi, người ta đang tọng vô con người tôi những thứ đó một cách thản nhiên, để rồi, cho tới một này tôi nhận ra mình đã dễ dàng chấp nhận mọi chuyện theo cách như thế.

Chẳng biết Ernest có từng tồn tại trong cơ thể mình cảm giác đó hay không? Tôi tự hỏi mình, nhưng khi đối diện với Ernest, mang đồ uống cho ông. Có khi ông không để ý, cũng có khi ông chỉ ngẩng đầu lên, khẽ cười xã giao. Công việc của ông là viết. Và nó là lẽ sống của ông. Tôi cũng không bàn luận gì nhiều về chuyện này.

Tôi thường tan ca làm vào lúc 9 giờ tối, cũng có khi muộn hơn. Ernest thường ra về cùng tôi. Quán đóng cửa sớm hơn so với những nơi khác. Khi ấy, Ernest thường rảo bước cùng tôi trên con đường lát gạch đỏ rêu phong trong thành phố. Những bức tường quét thứ sơn màu vàng đặc trưng, đôi chỗ những mảng rêu bám xanh đến tận lan can tầng hai, nơi có những chùm hoa nhỏ màu tím phủ xuống tạo nên những tấm rèm hoa thật gợi cảm.

Có lần Ernest nói với tôi, người ta đã dựng những bức tường này trước khi thành phố có hình hài như hiện tại.

Tôi thắc mắc với ông, tại sao lại như thế.

Ông đáp lại tôi rằng, ngày trước nơi đây là những nhà tù, bức tường ấy chính là một phần của những nhà tù mà người ta dựng lên với mục đích giam giữ những nô lệ làm phản trong cuộc nội chiến của thành phố.

Tôi không thích nghe chuyện chiến tranh, không thích một chút nào. Chiến tranh là quá khứ, là hồi ức.  Chuyện đấu tranh trở nên xa lạ đối với thế hệ chúng tôi, những người chưa từng kinh qua bất kỳ một cuộc chiến nào. Như nhạc Jazz, thế hệ chúng tôi ít người thích nghe dòng nhạc đó. Có thể giờ đây, người ta cần một thứ gì gấp gáp hơn và ngược lại.

Ernest phần nào hiểu suy nghĩ trong tôi nên ông không nói thêm nữa về chuyện tranh đấu, giết chóc…

Số phận của những con người đó ra sao, ông có biết không Ernest?

Tôi hỏi lại Ernest, dẫu có đôi lần ông né tránh việc tôi đi sâu vào trong một vấn đề mà người ta không hề muốn nhắc tới nữa. Một vấn đề mà người ta đang chôn chặt trong quá khứ. Với những con người, dành phần lớn cuộc đời mình để đi tìm cái tôi như Ernest thì chuyện đó như đào sâu lại những phân tầng ẩm thấp, tăm tối, hư vô trong tiềm thức của mình.

Ernest bèn nói, dĩ nhiên là chết, không một ai may mắn sống sót qua những bức tường này cả, cậu trẻ ạ! Kể cả những người được cho là khỏe mạnh nhất, nhưng trong điều kiện tối tăm, chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu quần áo, thiếu thức ăn, thiếu thuốc men như thế thì việc một cơ thể khỏe mạnh bị rút kiệt sức sống một cách nhanh chóng là chuyện hết sức bình thường. Hết-sức-bình-thường. Ernest nhấn mạnh. Và nhất là khi, người ta đã nhụt chí thì làm chuyện gì cũng chẳng xong.

Và rồi, họ héo mòn dần dần, mục rữa và tan biến. Không một dấu vết gì về họ nữa đúng không? Tôi nhận định, còn Ernest gật đầu. Tôi cho rằng, Ernest đang nghĩ tôi như một tên ấu trĩ thích đào bới sâu xa những chuyện chẳng liên quan gì tới mình, chẳng giúp ích được gì cho bản thân mình.

Chúng tôi vẫn bước đi, thật khẽ, trên nền gạch lạnh băng. Tôi cố gắng lắng nghe xem có âm thanh nào lọt qua những bức tường đá này không, tập trung lắng nghe một thôi hồi, nhưng tuyệt nhiên không có, cái tôi nhận được vẫn chỉ là thực tại lặng im. Màn đêm đen đặc mịn màng đang bao trùm lên thành phố này trong những ngày mưa ẩm tháng Ba.

***

Từ căn phòng của mình nhìn xuống đại lộ tôi dễ dàng nhận thấy sự chuyển động của một góc nhỏ trong thành phố rộng lớn. Đã bao lần tôi lơ đãng trước sự chuyển động đó, để cho mọi thứ mờ dần dần dưới ánh đèn vàng vọt, hiu hắt.

Mọi thứ đã và đang biến mất cậu trẻ ạ, Ernest đã nói với tôi như vậy. Không tài nào nhớ nổi.

Có thể Ernest đã đề cập tới nó trong những trang viết ở La Closerie de Lilas, nhưng chẳng bao giờ tôi đọc được nó, dù đôi lần qua sạp báo ở ven đường tôi đã định nán lại đôi chút để tranh thủ ngó xem Ernest đã viết những gì trong đó, nhưng sự thực là chưa lần nào tôi đọc được.

 Có thể Ernest đã viết về gia đình mình, về người cha đáng kính, về người mẹ đáng ghét của ông, về anh chị em của mình, về người vợ đầu của ông, về người vợ thứ hai của ông, về em gái của người vợ thứ hai của mình, những ngày trên chiến trường, về đấu bò, chuyện đi săn, những ngọn đồi xanh mướt mát ở châu Phi, những hòn đảo, con cá kiếm…ti tỉ những thứ để ông có thể viết mỗi ngày. Và cũng có đôi lần, tôi muốn đề nghị ông hãy viết những gì tôi đang nhìn thấy ở đây, từ căn phòng nhỏ của mình trông xuống đại lộ, nơi một góc nhỏ của thành phố đang khẽ khàng chuyển động, những hình nhân mờ nhạt bước qua nhau mà chẳng lưu lại dấu vết nào. Tất cả đều đang dần biến mất.

Nếu đứng đó, một hồi lâu thì tôi dễ dàng cảm thấy choáng váng, một chứng bệnh lý liên quan tới việc máu lưu thông không đều. Tôi bấu mạnh tay vào khung cửa sổ, từ từ di chuyển chân của mình về chiếc giường nhỏ, rồi ngồi xuống hai tay bưng lấy gương mặt đang tái đi phần nào cùng mình. Bỗng từ phía dưới đường, đám đông nhộn nhạo, đang bâu quanh những nghệ sỹ đường phố, giai điệu của kèn trumpet vang lên kéo theo những giai điệu jazz đầy ngẫu hứng, tiếng cười đùa, tiếng vỗ tay hòa vào nhau tạo nên những âm hưởng của đường phố. Mùa hè. Bất giác tôi chợt nghĩ tới những mùa hè ở P.

Lần nào tôi gặp cô ở La Closerie de Lilas, cô cũng đang đọc một cuốn sách, lúc dày, lúc mỏng, bên chiếc bàn, cạnh lọ hoa tươi, hộp khăn giấy, một tách cà phê đang bốc từng lọn khói mỏng manh mau lẹ tan biến trong khoảng thinh không, chẳng lưu lại chút dấu vết nào.

“Cậu đang đọc gì thế?”

Vài lần tôi hỏi cô như thế, có khi cô trả lời, có khi cô chỉ cười lấy lệ rồi lại chăm chú vào những trang sách như chưa có chuyện gì xảy đến. Tôi thử tưởng tượng, nếu như Ernest thấy cô đang chăm chú đọc một cuốn sách của ông thì ông sẽ cảm giác thế nào. Giá như tôi có thể hỏi Ernest vào ngay lúc này.

Nhưng vào ngày hôm đó, cô đã trả lời tôi bằng giọng điệu dễ nghe nhất trần đời, sự việc đó khiến tôi liên tưởng người chị đã khuất của mình. Chị tôi có giọng nói giống cô.

“Một trong những cuốn sách hay của Stein.”

Tôi biết quý bà đó, một trong những người bạn của Ernest. Đôi lần tôi đã gặp bà ta ở La Closerie de Lilas, đôi lần bà ta đã xuất hiện trong những đoạn hội thoại cụt lủn giữa tôi và Ernest. Nhưng sau đó, thì cũng chẳng để lại chút gì trong tâm trí, một chút ít cũng chẳng có, vậy nên tôi đã bối rối biết nhường nào khi không thể thốt ngay lên một câu nói bất kỳ rằng, tôi cũng biết quý bà Stein, và tôi đã từng gọi đồ uống, chút điểm tâm cho bà ấy.

“Một trong những người bạn của Ernest.”

Sau cùng tôi nói.

Cô lặng lẽ cười, như vạt nắng chiều lọt qua những ô cửa của La Closerie de Lilas. Tôi chẳng thể cảm nhận được gì hơn, khi tâm trí mình như lạc vào một không gian hoàn toàn khác, nơi những ký ức dâng lên như màn nước, đang nhấn chìm mọi hoạt cảnh xung quanh.

“Cậu sao thế?”

Giọng nói cô kéo tôi về với thực tại. Tôi cảm thấy nhiệt độ đang tăng cao trên gương mặt mình. Tôi sợ cảm giác sẽ phải đối mặt với cơn sốt tối nay khi nằm yên trên chiếc giường nhỏ, những cơn mộng mị bất chợt lại hiện về, giữa những nỗi đau giằng xé, sự dằn vặt. Chúng kéo dài hàng cây số, từ đại lộ này tới đại lộ khác, từ cánh đồng này tới cánh đồng khác, từ đại dương này qua đại dương khác.

“Cậu đang bệnh sao? Cậu nên xin nghỉ để về nhà?”

Nhà

Tôi lặng người đi trong giây lát, khi thanh âm trong trẻo đó vẫn vang lên bên tai mình.

“Mình không sao, chỉ là hơi choáng váng, đôi chút, có lẽ mình phải đứng hơi lâu, nên…”

“Mình hiểu.”

Sau đó, câu chuyện giữa chúng tôi kết thúc, khi những vị khách của buổi chiều đang lặng lẽ bước vào trong quán. Chúng tôi gật đầu chào nhau trong im lặng. Cô trở về với Stein.

Tối hôm đó về. Tôi sốt thật. Không ăn uống được gì ngoài chuyện nằm bẹp dí trên chiếc giường nhỏ. Tôi mơ màng nghĩ về cô, nghĩ về chị gái mình. Giữa hai người như có một mối liên kết dai dẳng nào mà tôi không tài nào lý giải nổi. Sau khi ban nhạc đường phố cất lên những giai điệu cuối cùng của bản blue- jazz buồn bã như nỗi buồn hàng thiên niên kỷ. Tôi bắt đầu bước vào cơn mộng mị của mình. Nơi những nỗi đau dài đằng đẵng, nối tiếp nhau từ đại lộ qua cánh đồng, qua thành phố.

Thời gian sau, tôi có may mắn được hỏi chuyện Ernest về quý bà Stein. Ông chỉ đơn giản nói rằng, đó là người phụ nữ có cá tính mạnh mẽ nhất mà ông từng gặp. Mạnh mẽ từ con người cho tới từng trang viết. Tôi không biết là cô có mê đắm Stein với lý do mà Ernest đề cập tới hay không, nhưng tôi dám chắc rằng, hẳn ở người phụ nữ ấy phải có thứ gì đó thật đặc biệt. Mãi về sau này, khi bắt gặp hình ảnh của bà ở đâu đó, trên bìa gấp sách, trên một tờ báo, thì ai biết rằng ẩn sâu trong đôi mắt cương nghị đó, thứ văn chương kỳ quái như người ta vẫn gọi lại có thể sản sinh.

Tôi rất muốn nói chuyện đó với cô, dẫu chẳng biết nó mang lại kết quả gì, đi tới đâu trong những lần trò chuyện chớp nhoáng. Nhưng thực sự, tôi rất muốn nói chuyện với cô, ngay giữa cơn sốt đang hành hạ thân thể mình. Trong bóng tối mịn màng, thân thể tôi trở nên mền oặt như con giun đang quằn quại dưới ánh nắng thiếu đốt của mùa hè tháng Bảy ở miền nhiệt đới. Tôi nhớ những ngày mùa hè ở miền nhiệt đới.

Đó cũng là khoảng thời gian mà sau này Ernest kể cho mọi người nghe về cuộc sống của ông, ở giữa những hòn đảo của vùng xích đạo, có đảo lớn, đảo vệ tinh, đảo nhỏ chỉ những cồn đất nhô lên từ màu xanh của cây dừa, và mưa rất nhiều, muỗi rất nhiều, bão cũng rất nhiều. Tôi nhớ ông đã từng có những trang viết về những hòn đảo, dòng nước ấm…Tôi chẳng biết rằng, trong một giây nào đó Ernest hồi tưởng lại khoảng thời gian quá khứ, Ernest có cảm giác giống như tôi không, cảm giác như con giun quằn quại dưới ánh nắng thiêu đốt của mùa hè tháng Bảy,  miền nhiệt đới.

Câu chuyện về thứ văn chương quái dị của Stein xuất hiện trong cuộc trò chuyện giữa tôi và cô ở La Closerie de Lilas, ngày một nhiều, trên những cung đường, buổi chiều nắng nhạt, bên bức tường giam giữ từng giam giữ nô lệ trong cuộc nội chiến.

“Người đàn ông đó là ai?”

Cô đề cập tới Ernest trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Tôi không vội đáp lời, cô thì luôn luôn giữ được vẻ điềm tĩnh hiếm có ở người con gái đang trong độ tuổi này.

Chúng tôi ngồi xuống ghế đá, hướng mắt ra đại lộ rộng lớn.

“Một người bạn của Stein. Có đôi lần ông ấy đã đề cập tới chuyện đó qua những lần trò chuyện với mình. Nhưng mình vẫn không dám chắc lắm giữa những mối quan hệ đó. Ernest có thể là một người không thích chia sẻ nhiều ngoài những trang viết, hay rượu của ông. Đơn giản chỉ như một người đàn ông thú vị và bí ẩn.”

Cô gật đầu đồng ý.

Tôi bèn được thể nói tiếp:

“Sở dĩ chuyện của một tên bồi bàn, nghe ngóng rồi thi thoảng bàn tán về chuyện trong giới văn chương thì cũng là một việc làm hết sức bình thường. Tuy nhiên những vấn đề sâu xa trong nó lại không tài nào hiểu được, giống như sâu thẳm bên trong tâm can của một con người vậy. Mình luôn nghĩ tới đại dương”.

“Đại dương?”

Cô nhắc lại với giọng điệu pha chút sự tò mò ngạc nhiên.

“Tại sao lại là đại dương?”

Tôi biết rằng, mình đang  biến bản thân mình trở nên ngu ngốc trước những gì mà bản thân mình sắp nói ra tiếp đây, nhưng thây kệ, tôi vẫn sẽ nói. Tôi khẽ hít một hơi thật sâu như để lấy lại sự bình tĩnh đã bay biến tự lúc nào, trong những cuộc trò chuyện với cô, tôi luôn luôn không thể làm chủ được bản thân mình. Mọi thứ như đang bị cuốn trôi đi theo dòng xoáy nước trong cơn mưa lớn, giữa lòng đường.

Tôi bắt đầu với dòng cảm xúc ngổn ngang của mình.

“Mình luôn nghĩ tới đại dương, chẳng hiểu sao mỗi khi mường tượng tới điều gì sâu thẳm trong tâm can mình, mình lại nghĩ tới đại dương. Ernest có từng nghĩ tới những điều đó, thiết nghĩ ông ấy đã từng đề cập tới nó trong bất cứ trang viết nào của ông. Về những hòn đảo, hay dòng nước ấm chẳng hạn. Mình cũng không biết nốt, chỉ là mình đang cảm thấy trống trải mà thôi. Cậu biết không, trên mặt biển đen thẫm, lấp loáng dưới ánh trăng, mình chẳng nhận ra nổi thứ gì đang tồn tại ngay cả bản thân mình nữa, mình không nhìn thấy gì hết, không thể lắng nghe, cả tiếng trái tim mình, chỉ thấy lòng mình trải rộng ra như mặt biển, dưới ánh trăng lấp lánh, không một con tàu, không một ngọn hải đăng, không một con sóng nào có thể khuấy động những phần sâu thẳm ở bên trong. Mọi thứ im lìm như ngàn năm vẫn thế. Rồi mình cũng bất chợt nhận ra rằng, mình đang tồn tại là vì cái gì đây? Mình đang tồn tại vì cái gì đây?”

Khi đó, tôi lại cảm thấy nhiệt độ đang tăng cao trên gương mặt mình, như một cơn sốt khác lại tới. Tôi không buồn để ý tới xung quanh nữa, dùng hai tay bưng lấy gương mặt đang trở nên nóng phừng phừng.

Cô chưa vội nói gì, điềm tĩnh như mọi lần, điềm tĩnh như khi đọc những trang viết nổi loạn, kỳ dị của Stein. Cô đặt nhẹ bàn tay mình lên vai tôi, rồi cô nói:

“Mình sẽ không thể nào hiểu ngay được cảm giác của cậu ngay lúc này đâu. Nhưng cũng không phải là mình không thể hiểu nổi nó. Cảm giác ấy, như vài lần trong đời, mình đã từng trải qua, có thể cách tiếp nhận của mình khác so với cánh tiếp nhận của cậu. Và những cánh cửa khi được mở ra, thì ta cũng chẳng biết phải làm gì khi đối mặt với những thứ trong đó, ngay cả khi nói về đại dương, con tàu hay đêm trăng. Bất cứ một hình ảnh nào liên đới ở đây, ắt phải mang một hàm ý nhất định. Có thể Ernest đã từng viết, có thể Stein đã từng viết và ta đã từng nghĩ tới mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi thời khắc qua đi…và để lại những dấu tích. Nhưng chắc chắn một điều, mọi thứ sẽ qua đi, chắn chắn”

Chúng tôi không nói gì nữa, màn đêm đang buông dần xuống đại lộ, trên vỉa hè, sau những bức tường xám xịt giam giữ những linh hồn nô lệ. Thân xác tàn lụi chỉ còn những mẩu xương lẩn khuất trong bóng tối, sân ga hay bất cứ ngóc ngách nào trong thành phố mênh mang này. Đó là cuộc trò chuyện lâu nhất giữa tôi và cô, trước khi mọi thứ biến mất.

Stein biến mất.

Ernest biến mất.

Và cô biến mất.

Nếu như trở lại P vào khoảng 10 năm trước khi Ernest biến mất, tôi ngạc nhiên khi mọi thứ vẫn chẳng thay đổi gì nhiều, điều thay đổi duy nhất, có thể khi ấy, tôi đã trở thành một ông già 60 tuổi, gần bằng với độ tuổi mà Ernest cầm trên tay khẩu súng săn nã đạn vào trong đầu mình ngay tại nhà riêng. Sau đó, ông lìa đời. Chẳng biết việc đó có mang ý nghĩa nào với ông hay không, hay đơn giản là chỉ thêm một lần biến mất. Một lần biến mất của P. Một lần biến mất ở nhà riêng của mình. Và mãi mãi.

Còn tôi vẫn ở đây, bên trong gian phòng chính của La Closerie de Lilas, những giai điệu bản blue-jazz cất lên bên máy quay đĩa, những giọng ca rên rỉ, rất khẽ, rất dễ dàng để nghe thấy tiếng giọt cà phê nhỏ xuống chiếc ly nhỏ. Người bồi bàn, bằng với độ tuổi tôi những năm tháng trước đây đang tươi cười với một người phụ nữ, người phụ nữ, có lẽ trạc tuổi Stein. Bà ta không nói gì nhiều, gọi đồ uống, gọi một món điểm tâm nhẹ trong thực đơn mà người bồi bàn đưa, sau đó lại chăm chú nhìn vào cuốn sách mà bà lôi ra từ trong chiếc giỏ tay xăng-đan màu xanh cổ vịt. Màu sắc luôn thu hút ánh nhìn của tôi lúc bấy giờ.

Rồi tôi hướng mắt về chiếc bàn quen thuộc, chỗ ngồi quen thuộc, chỗ đứng quen thuộc, chiếc bàn quen thuộc, lọ hoa khô, gạt tàn, giỏ đựng khăn giấy, vài lọ gia vị…nơi những cuộc trò chuyện giữa tôi và cô, trôi đằng đẵng về phía sau. Những cuộc chuyện trò chớp nhoáng ngắn ngủi, nhưng dài dần nối đuôi nhau từ thời điểm chúng tôi còn trẻ, trưởng thành hơi đôi chút, kết hôn, sinh con, già nua, mắt kém chân chậm… Và giờ đây bản thân mình đã trở thành một ông lão ngoài 60 tuổi, không có gì ngoài chiếc áo măng tô màu ghi đang bận lên người, một chiếc khăn choàng cổ màu xanh cổ vịt, một chiếc va li đựng bộ quần áo, đồng hồ, bàn chải đánh răng, lược chải tóc, vài cuốn sách mỏng, hộ chiếu, hành trình trở về miền nhiệt đới với một bức ảnh của chị gái mình.

“Hãy về nhà đi!”

Nhà.

Đó là câu nói cuối cùng mà cô nói với tôi trước khi biến mất khỏi P, khỏi La Closerie de Lilas, trên đại lộ dài hun hút kéo tận đường chân trời. Vài chiếc xe rượt qua, vội vã. Trời vừa mưa xong, những vũng nước đọng lại dưới lòng đường, vỉa hè loang loáng nước, vương vãi ánh sáng vàng từ những ngọn đèn.

Tôi và cô đã đứng bên nhau một khoảng ngắn ngủi, thời gian chầm chậm trôi qua. Chúng tôi không biết nói gì, ngoài đại dương, không nghe thấy tiếng con tàu. Không nhìn thấy ống khói, không nghe tiếng sóng, không nhìn thấy chúng táp mạnh vào vách đá dựng đứng, đen ngòm, chỉ thấy lòng mình trải rộng ra như mặt biển dưới ánh trăng sáng loang loáng.

“Về nhà đi!”

Cô nhắc lại, rồi buông đôi tay tôi ra, biến mất trong bóng đêm đang bao vây thành phố.

0
0 sao / 0 đánh giá
5 sao - 0 đánh giá
4 sao - 0 đánh giá
3 sao - 0 đánh giá
2 sao - 0 đánh giá
1 sao - 0 đánh giá
Điểm 0 SAO trên tổng số 0 đánh giá
Bình luận
Chưa có bình luận nào, bạn có thể gửi bình luận tại đây
Gửi bình luận của bạn tại đây (*):
(Thông tin Email/ĐT sẽ không hiển thị phía người dùng)
*Nhấp vào đây để nhận mã Nhấp vào đây để nhận mã
Tags: VỀ NHÀ
Bạn có truyện hay, hãy gửi cho mọi người cùng xem tại đây, chúng tôi luôn hoan nghênh và cảm ơn bạn vì điều này: Gửi truyện
Ngoài ra, bạn cũng có thể gửi lên Lazi nhiều thứ khác nữa Tại đây!
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư